Xu Hướng 6/2023 # 6 Món Ăn Chay Theo Phương Pháp Thực Dưỡng Ohsawa Đơn Giản Ngon Miệng # Top 8 View | Raffles-hanoi.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # 6 Món Ăn Chay Theo Phương Pháp Thực Dưỡng Ohsawa Đơn Giản Ngon Miệng # Top 8 View

Bạn đang xem bài viết 6 Món Ăn Chay Theo Phương Pháp Thực Dưỡng Ohsawa Đơn Giản Ngon Miệng được cập nhật mới nhất trên website Raffles-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Cơm lứt cuốn rong biển

Một biến tấu thú vị của gạo lứt và rong biền cùng ít lá rau, bạn sẽ có ngay món ăn vừa lạ miệng vừa có thể ăn chay, thực hiện đúng phương pháp thực dưỡng, một trong 108 món ăn chay theo phương pháp thực dưỡng ohsawa.

 

Cháo gạo lứt

Gạo lứt, đậu đỏ vo đãi sạch. Luộc sôi đậu đỏ rồi vớt ra để ráo. Cho gạo lứt, đậu đỏ, hạt sen, phổ tai, mơ muối (cắt nhỏ), bột nghệ, muối hầm ngâm với 1 lít nước trong nồi áp suất khoảng 20 phút, tắt bếp, để nửa tiếng sau đun tiếp lần 2 trong 20 phút. Có thể cho thêm rau củ theo mùa vào thành món cháo thập cẩm. Khi cho rau củ thì không ninh ngay từ đầu vì sẽ bị nồng. Nên hầm hoặc luộc rau củ riêng rồi ninh cùng cháo khi đun lần 2. Có thể ăn kèm rau thơm, hành lá. Món cháo gạo lứt ăn rất hợp vị với ca-la-thầu (củ cải ngâm tương).

 

Cơm cốm gạo lứt

 

Cơm lứt hạt kê hoặc bắp

Đãi kê, ngâm 15 phút rồi vớt ra để ráo. Đãi gạo, ngâm nước 1.30 đến 2 giờ thì vớt ra. Thêm nước sạch vào nước ngâm cho đủ 2 lon đổ vào nồi, đậy vung, đun lửa lớn cho nhanh sôi. Bỏ gạo vào, dùng đũa khuấy đều rồi đậy vung lại, để sôi lại 10 phút. Mở vung, nêm muối, khuấy đảo nhẹ và nấu gạo với nước. Cơm cạn nước, mở vung, bỏ kê vào, dùng đũa trộn đều và đậy vung nấu tiếp cho chín. Ăn với muối mè.

 

Cơm gạo lứt muối mè

Quá đơn giản để có nồi cơm ngon phải không nào! Sau khi thử hết 108 món ăn chay theo phương pháp thực dưỡng ohsawa thì đây vẫn là món có thể ăn thường xuyên nhất.

 

Bánh đa kê truyền thống

Thực Đơn Thực Dưỡng Ohsawa Dành Cho Những Người Ăn Chay Trường

Thực dưỡng Ohsawa là gì? Các bậc của phương pháp thực dưỡng này 1. Thực dưỡng Ohsawa xuất phát từ đâu?

Thực dưỡng Ohsawa xuất phát từ xứ sở hoa anh đào, Nhật Bản, nơi có số người cao tuổi cao hàng đầu trên thế giới, phương pháp thực dưỡng ngày càng được nhiều người lựa chọn để có được sức khỏe và cuộc sống an nhiên hơn, cân bằng hơn. Tuy nhiên, không phải dễ dàng để có thể thực hiện điều này, vì vậy, chúng ta phải luôn thực hiện theo 10 bậc thực dưỡng ohsawa để đảm bảo bản thân đang đi đúng hướng.

Trong thực dưỡng, cách ăn được đánh số từ -3 đến 7 theo tỉ lệ tăng dần của gạo lứt hay cốc loại, từ 10% đến 100%, áp dụng đúng các số ăn này thì bạn sẽ có thể phòng và trị các bệnh từ cảm mạo, phong hàn đến gan, thận, ưng thư, cao nhất là tâm thần.

100% gạo lứt cho cả ngày. Không dùng bất kì thức ăn nào khác.

– Bậc số 6:

90% gạo lứt cùng 10 % rau củ đậu và hạt nhiều dầu chế biến ít nước.

– Bậc số 5:

80% gạo lứt cùng 20% rau củ đậu và hạt nhiều dầu chế biến ít nước.

– Bậc số 4:

70% gạo lứt kèm 20% rau củ đậu và hạt nhiều dầu chế biến ít nước và 10% canh súp thuần thực vật.

– Bậc số 3:

60 % gạo lứt kèm 30% rau củ đậu và hạt nhiều dầu chế biến ít nước và 10% canh súp thuần thực vật.

– Bậc số 2:

50% gạo lứt kèm 30% rau củ đậu và hạt nhiều dầu chế biến ít nước, 10% canh súp thuần thực vật và 10% sản phẩm động vật chế biến ít nước (nếu ăn chay thì đổi thành ngũ cốc)

– Bậc số 1:

40% gạo lứt kèm 30% rau củ đậu và hạt nhiều dầu chế biến ít nước, 10% canh súp thuần thực vật và 20% Sản phẩm động vật chế biến ít nước (nếu ăn chay thì đổi thành ngũ cốc)

– Bậc số -1:

30% gạo lứt kèm 30% rau củ đậu và hạt nhiều dầu chế biến ít nước

10% canh súp thuần thực vật

20% sản phẩm động vật chế biến ít nước

10% rau sống và trái cây.

– Bậc số -2:

20% gạo lứt kèm 30% rau củ đậu và hạt nhiều dầu chế biến ít nước

10% canh súp thuần thực vật

25% Sản phẩm động vật chế biến ít nước

10% rau sống và trái cây

5% tráng miệng và đồ ngọt.

– Bậc số -3:

10% gạo lứt kèm 30% rau củ đậu và hạt nhiều dầu chế biến ít nước

10% canh súp thuần thực vật

30% sản phẩm động vật chế biến ít nước

15% rau sống và trái cây

5% tráng miệng và đồ ngọt.

Trong 10 bậc thực dưỡng ohsawa chỉ có tối đa 5% thức ăn được phép ăn đồ ngọt còn lại là nguyên liệu thiên nhiên, ăn thanh đạm.

Sự khác biệt giữa ăn chay thực dưỡng ohsawa và ăn chay đơn thuần

Để hiểu rõ hơn về thực dưỡng ohsawa, sau khi nghiên cứu về triết lí và những bài tập, chế độ ăn… thì việc so sánh giữa ăn chay thực dưỡng ohsawa và ăn chay thông thường sẽ giúp bạn có cái nhìn đầy đủ hơn về phương pháp bảo vệ sức khỏe và có được cuộc sống hạnh phúc đến từ đất nước mặt trời mọc, Nhật Bản.

1. Có chế độ ăn rõ ràng

Ohsawa đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu phương pháp này và đưa ra một chế độ ăn, nguyên tắc để có thể thanh lọc cơ thể, xác lập thế cân bằng nhờ thức ăn.

Đầu tiên phải xác định, ăn chay thực dưỡng ohsawa khác với ăn chay thông thường là nó không phải tín ngưỡng, tâm linh để cầu ước điều gì mà là phương pháp thực tế, thông qua thức ăn để con người đạt được sự cân bằng âm dương, có được sức khỏe tốt, tinh thần tốt.

2. Thức ăn chủ yếu là gạo lứt, đề cao thức ăn toàn phần

Một điều đặc biệt so với ăn chay thông thường đó là sử dụng gạo lứt làm trung tâm, các món ăn hạn chế việc chế biến, và thường dùng nhất là việc hấp, luộc để giữ nguyên hương vị thức ăn.

Đồng nghĩa với việc nếu ăn chay thông thường là không thịt cá, không sát sinh thì với ăn chay thực dưỡng ohsawa là chỉ ăn ngũ cốc, rau củ quả, trái cây và đặc biệt, nếu thực hiện phương pháp ăn thực dưỡng số 7 là chỉ ăn duy nhất gạo lứt muối mè.

Điều thứ hai đó là trong triết lí thực dưỡng, con người nên ăn thức ăn toàn phần nhĩa là thức ăn tại nơi họ sinh ra, thức ăn theo mùa, vì ohsawa tin rằng vạn vật trời đất sinh ra là để tương hỗ lẫn nhau, bổ sung âm dương cho nhau.

Vì vậy cùng là ăn rau củ thì bạn nên mua rau củ được trồng tại địa phương hơn là rau củ nhập từ nơi khác về, ăn thức ăn thiên nhiên trong nước hay hơn nước ngoài.

Một điểm khác nhau cơ bản của ăn chay thông thường và ăn chay theo phương pháp thực dưỡng là mục đích. Theo thực dưỡng nghĩa là theo chế độ ăn để có thể nâng cao sức đề kháng của cơ thể, trị bệnh, sống lâu hơn.

Ohsawa tin rằng mọi bệnh tật đều xuất phát từ việc con người ăn uống quá mức âm hoặc quá dương, thiếu đi sự cân bằng và tự đẩy bản thân vào việc bệnh tật, mệt mỏi, yếu ớt.

Vì vậy, khi ăn gạo lứt, ngũ cốc, những thức ăn không quá âm cũng không quá dương sẽ giúp cơ thể dần phục hồi, quay lại thế cân bằng, loại bỏ độc tố từ đó phòng và trị các bệnh trong cơ thể.

Những nguyên tắc cần phải đảm bảo khi ăn thực đơn thực dưỡng ohsawa Nguyên tắc 1:

– Không được làm chín thức ăn bằng các thiết bị sóng điện từ.

Nguyên tắc 2:

– Không sử dụng chất bảo quản, bột ngọt, chất điều vị, bột nêm, hương vị, gia vị tổng hợp, chất tạo màu…

Nguyên tắc 3:

– Không dùng thực phẩm đã qua tinh chế.

– Không dùng các thực phẩm được nuôi trồng bằng các hóa chất gây hại (phân hóa học, chất kích thích, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ,…)

Nguyên tắc 5:

– Không dùng các thức ăn trái mùa, lai tạo nhân tạo. Không dùng thức ăn quá xa nơi sinh sống, bán kính 60km trong cả 10 bậc thực dưỡng ohsawa.

Nguyên tắc 6:

– Không sử dụng thức ăn qua chăn nuôi công nghiệp.

Thực dưỡng ohsawa là phương pháp giúp con người có được cuộc sống khỏe mạnh và hạnh phúc. Nhờ áp dụng các cách ăn đúng nguyên tắc, đặc biệt là cách ăn số 7 có thể giúp phòng và trị bệnh cho mọi người, từ những bệnh đơn giản như cảm mạo đến bệnh nặng về máu, gan, thận, hệ tiêu hóa, thậm chí ung thư, tâm thần. Bạn muốn có điều gì khi áp dụng phương pháp này và bạn đang ở đâu trong 10 bậc thực dưỡng ohsawa.

6 món ăn chay theo thực đơn thực dưỡng ohsawa ngon miệng

Một biến tấu thú vị của gạo lứt và rong biền cùng ít lá rau, bạn sẽ có ngay món ăn vừa lạ miệng vừa có thể ăn chay, thực hiện đúng phương pháp thực dưỡng.

Gạo lứt, đậu đỏ vo đãi sạch.

Luộc sôi đậu đỏ rồi vớt ra để ráo.

Cho gạo lứt, đậu đỏ, hạt sen, phổ tai, mơ muối (cắt nhỏ), bột nghệ, muối hầm ngâm với 1 lít nước trong nồi áp suất khoảng 20 phút, tắt bếp, để nửa tiếng sau đun tiếp lần 2 trong 20 phút.

Có thể cho thêm rau củ theo mùa vào thành món cháo thập cẩm.

Khi cho rau củ thì không ninh ngay từ đầu vì sẽ bị nồng.

Nên hầm hoặc luộc rau củ riêng rồi ninh cùng cháo khi đun lần 2.

Có thể ăn kèm rau thơm, hành lá.

Món cháo gạo lứt ăn rất hợp vị với ca-la-thầu (củ cải ngâm tương).

Đãi kê, ngâm 15 phút rồi vớt ra để ráo.

Đãi gạo, ngâm nước 1.30 đến 2 giờ thì vớt ra.

Thêm nước sạch vào nước ngâm cho đủ 2 lon đổ vào nồi, đậy vung, đun lửa lớn cho nhanh sôi. Bỏ gạo vào, dùng đũa khuấy đều rồi đậy vung lại, để sôi lại 10 phút. Mở vung, nêm muối, khuấy đảo nhẹ và nấu gạo với nước.

Cơm cạn nước, mở vung, bỏ kê vào, dùng đũa trộn đều và đậy vung nấu tiếp cho chín.

Ăn với muối mè.

Thưởng thức bánh đa kê, vừa có độ giòn của bánh, độ ngọt bùi của đậu xanh và thêm chút giòn tươi của dừa non, một món ăn vừa vui miệng vừa có thể thay đổi khẩu phần ăn theo chế độ thực dưỡng phải không nào!

thực đơn thực dưỡng 1 tuần

thực đơn thực dưỡng giảm cân

cách nấu những món ăn thực dưỡng

ăn sáng thực dưỡng

cách chế biến một số món ăn thực dưỡng

mâm cơm thực dưỡng

thực dưỡng là gì

thực hành thực dưỡng

6 Món Ăn Chay Đơn Giản Giàu Dinh Dưỡng Cho Cả Gia Đình

Trong xã hội hiện đại, ẩm thực chay đã không còn quá xa lạ với nhiều người. Việc sử dụng quá nhiều thực phẩm chế biến sẵn, hoặc các thực ăn giàu đạm từ thịt cá thường gây ra cảm giác ngấy, chán ăn, mà thậm chí còn có thể gây nên những hậu quả không tốt đối với cơ thể.

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi chia sẻ cùng các bạn 6 món ăn chay đơn giản giàu dinh dưỡng rất thích hợp sử dụng gia đình hoặc bày mâm cỗ tiệc chay.

Đây là một món ăn ngon rất thích hợp khi nấu tiệc, cỗ chay hoặc trở thành thực đơn trong mỗi nhà hàng. Rong sụn có vị giòn, mát khi kết hợp cùng rau và một số gia vị khác sẽ làm cho món nộm thêm phần hấp dẫn. Hơn nữa, rong sụn gai còn chứa rất nhiều dưỡng chất cần thiết đối với cơ thể, sử dụng sản phẩm thường xuyên có thể cải thiện đáng kể chức năng của xương, hệ tiêu hóa, hệ tuần hoàn.

Rong sụn gai, sẽ ngon hơn nếu sử dụng sản phẩm rong sụn muối từ biển Nha Trang;

Su hào (hoặc đu đủ xanh), cà rốt thái sợi;

Rau mùi, kinh giới, rau thơm bạc hà, ớt;

Lạc rang sẵn;

m, đường, mì chính (bột ngọt), bột canh.

Rong sụn gai ngâm trong nước sạch để nguội 20-25 phút để rửa trôi muối, sau đó vớt ra để ráo, cắt miếng vừa ăn. Nạo đu đủ, cà rốt thái sợi vừa ăn rồi trộn đều với nhau.

Pha nước trộn nộm: Sử dụng nước lọc, dấm, đường, ớt cùng với các gia vị khác theo một tỷ lệ vừa phải, nếm thấy nước dùng vừa ăn, vị chua ngọt vừa đủ là được. Sau đó cho su hào, cà rốt thái sợi trộn đều lên cho ngấm, rồi cho rong sụn gai đã để ráo nước vào. Ướp nộm trong khoảng thời gian 15-20 phút cho ngấm gia vị, sau đó cho các loại rau thơm cùng ớt vào. Sau cùng đổ ra đĩa và rắc lạc/vừng lên trên và cùng thưởng thức với cả gia đình!

Đây là một món ăn tuyệt vời, rất đưa cơm, mùi thơm của chả lá lốt dù là với món mặn hay món chay đều tạo ra một cảm giác rất ngon miệng!

Với cách làm chả lá lốt chay, nguyên liệu bạn cần có sẽ là:

Đầu tiên, bạn ngâm mộc nhĩ vào nước nóng cho nở, rồi cắt chân rửa sạch, thái sợi. Sau đó, bạn rửa sạch hành hoa rồi thái nhỏ

Tiếp theo, bạn cho 2 bìa đậu vào bát tô đánh nát rồi trộn cùng với hành hoa, mộc nhĩ, đậu Hà Lan, ngô ngọt cùng 1 thìa hạt nêm nhỏ

Sau phi trộn xong phần nhân, bạn mang lá lốt rửa sạch rồi để ráo. Lưu ý, cần để lá lốt thật ráo nước, kẻo khi rán sẽ bị bắn dầu.

Giờ bạn cho phần nhân đã trộn vào bên trong lá lốt rồi cuộn lại. Bạn làm như thế đến khi hết nhân thì thôi.

Bắc chảo lên bếp, cho dầu ăn vào đun sôi, sau đó, thả từng cái chả vào rán ở lửa nhỏ. Không nên để lửa to kẻo chả sẽ cháy. Khi nào thấy bề mặt lá lốt ngả màu xanh đậm là chả đã chín.

Cuối cùng, chỉ cần gắp chả lá lốt chay ra đĩa ròi bày lên mâm cỗ là xong

3. Canh rong biển nấu hạt sen

Canh rong biển là món ăn rất giàu dinh dưỡng, ở các quốc gia phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản, rong biển được xem như “siêu” thực phẩm thường xuyên có mặt trong mỗi bưa ăn gia đình. Rong biển khô nấu canh có thể kết hợp cùng tôm nõn, đậu phụ, thịt bò hoặc thịt lợn xay nhuyễn, nhưng trong phạm vi bài viết về các món chay này, chúng tôi giới thiệu với các bạn món canh rong biển nấu hạt sen.

(Ảnh canh rong biển nấu hạt sen) st

Cho rong biển vào nước ngâm cho nở ra;

Nấm rơm cắt làm hai, ngâm nước muối;

Gừng cắt lát đập dập;

Cà rốt cắt lát, có thể tỉa hoa cho đẹp.

Cho ½ lít nước vào nồi đun sôi. Cho gừng và hạt sen vào nấu trong khoảng 5 phút. Sau đó cho cà rốt và nấm rơm vào nấu chung. Nêm vào nồi một muỗng nước tương, hạt nêm. Nếm cho vừa ăn. Sau cùng là cho rong biển vào rồi tắt bếp. Múc canh ra tô, cho tiêu và hành lá thái nhỏ vào. Vậy là bạn đã có ngay một món ăn ngon mà không quá khó để thực hiện.

Chúc mọi người ngon miệng với món canh rong biển hạt sen !

Đậu hũ rửa sạch cắt miếng vuông mỏng. Bột ngô bỏ ra đĩa, gắp từng miếng đậu tẩm qua bột rồi cho vào chảo dầu nóng rán vàng, bột chỉ cần bám sơ quanh miếng đậu là được.

Khi rán đậu chú ý để lửa nhỏ để tránh bột bị cháy. Đậu rán chín vàng hai mặt thì cho ra đĩa, để sang một bên.

Đặt chảo trở lại bếp, dầu ăn cho láng chảo, phi tỏi thơm. Cho đầu hành thái nhỏ vào phi cùng, tiếp đến cho ớt thái lát, cà chua thái hạt lựu vào đun. Cho một chút nước nếu chảo quá khô và để tránh cà chua bị cháy.

(Ảnh bún xào chay) st

150gr bún gạo;

1 miếng đậu phụ chiên;

Nửa củ cà rốt;

5 cây cải thìa;

3 cây nấm đùi gà;

Nửa miếng tàu hũ ki (váng đậu);

Gia vị

Bước 2: Bún gạo bạn đem trụng qua nước sôi để cho mềm, sau đó bạn đem vớt ra để cho ráo nước, cho thêm 1 thìa dầu ăn vào đem trộn đều cho bún không dính vào nhau;

Bước 4: Nấm đùi gà bạn đem thái miếng vừa ăn;

Bước 5: Cà rốt bạn đem thái sợi;

Bước 6: Bắc chảo lên bếp cho 2 thìa canh dầu ăn và bỏ 1 thìa cafe hành tím băm vào, khi mà hành tím dậy mùi thơm thì bạn đem cho cà rốt cùng với nấm đùi gà vào đem xào lên;

Bước 8: Xào cho chín các nguyên liệu thì bạn cho thêm đậu phụ thái lát vào chảo;

Bước 10: Tắt bếp và đem đổ bún gạo vào đem trộn đều lên. Nếu bún xào nhạt thì bạn có thể ăn với nước tương và cùng với vài lát ớt kèm theo.

Đây là một món ăn rất ngon, có thể sử dụng ăn cùng với cơm, cũng có thể sử dụng nhậu lai rai cùng lon bia tươi cảm giác rất tuyệt.

Cho dầu ăn vào chảo, dầu sôi cho tỏi vào phi vàng thơm, trộn muối cùng ớt bột cùng cho vào một lượt. Rong mứt (rong biển khô) xé miếng vừa ăn rồi cho vào chảo đảo đều cho ngấm gia vị đến khi giòn, sau cùng cho vừng, đảo thêm một lát thấy dậy mùi thơm, sợi rong biển giòn là được.

Một món ăn ngon, lạ hấp dẫn với công thức chế biến đơn giản thì tại sao lại không kết hợp trong mỗi bữa ăn gì đình nhỉ?

Các Phương Pháp Làm Chín Thức Ăn

Nói đến nấu ăn, chúng ta không thể không nói đến các kỹ thuật làm chín thức ăn bằng nhiều phương pháp.

Khái niệm chung: Kỹ thuật làm chín là làm cho nguyên liệu chín, bổ, hợp vệ sinh, có mùi vị thơm, ngon.Tạo điều kiện cho cơ thể tiêu hoá và hấp thụ 1 cách dễ dàng.

Phương pháp làm chín được chia làm những cách như sau:

1. Phương pháp đun nóng ướt: Chia làm 2 loại:

a) Làm chín bằng nước: Có 8 phương pháp:

b) Làm chín bằng hơi nước: Có 4 phương pháp:

2. Phương pháp đun nóng khô: Chia làm 2 loại:

a) Làm chín bằng chất béo: Có 3 phương pháp:

b) Làm chín không bằng chất béo: Có 5 phương pháp:

Là phương pháp làm chín bằng cách bỏ thực phẩm ở thể trạng khối lượng nguyên cả con vào nước ( nước sôi hay nước lã ) rồi đun trong thời gian tương đối ngắn với độ nhiệt trung bình của lửa để làm thực phẩm chính tới hay chín mềm. Các món luộc thuộc loại món ăn phổ thông, chế biến đơn giản, nhưng cũng có món trong các bữa ăn thịnh soạn lại được chế biến từ món luộc. Mỗi món luộc lại cần một thứ nước chấm phù hợp và ăn cái là chính. Còn nước luộc ăn riêng thay canh hoặc làm nước dùng để nấu các món khác.

Phương pháp luộc có thể áp dụng với hầu hết các loại nguyên liệu là động vật hay thực vật. Khi luộc xong thành phẩm phải đạt được những yêu cầu:

– Thịt phải trắng(thịt bò đừng nên luộc).

– Nước phải trong(chú ý vớt bọt).

+ Mùi vị : Giữ được mùi vị đặc trưng của thực phẩm.

– Thịt chín mềm, không dừ, không dai.

– Thủy sản chín tới.

– Rau lá chín tới.

+ Nước chấm: không mặn ngắt

Muốn đạt được yêu cầu trên, cách luộc nói chung là :đun sôi nước, cho muối, khoảng 20 g/lít nước, cho gia vị thơm ( nếu có ) rồi bỏ thực phẩm vào luộc cho chín là được, vớt ra để ráo. Cần chú ý chọn nguyên liệu non, mềm, dễ chín. Khi luộc phải đun đều lửa và liên tục từ lúc bỏ nguyên liệu vào luộc chín đến khi ra thành phẩm.

Là cho thực phẩm vào nước lạnh hay ấm là tùy thuộc vào nguyên liệu.Đun sôi kỹ rồi cho gia vị vừa ăn.Sau đó cho nguyên liệu thực vật vào.Đun cho nguyên liệu chín tới hoặc chín mềm.

– Thời gian chế biến phụ thuộc vào tính chất ,khối lượng thực phẩm.

– Trong món canh,lượng nước thường nhiều hơn cái.Nước phải trong và ngọt tự nhiên của sản phẩm.

– Nước canh có thể sử dụng nước lã hoặc nước luộc thịt.Nước luộc thịt có thể sử dụng nấu các trong các loại canh.Nhưng nước luộc các loại thủy sản chỉ để dùng nấu canh,chế biến từ nguyên liệu thủy sản.

Là phương pháp bỏ thực phẩm có cỡ lớn vào nhiều nước, đun sôi lăn tăn trong thời gian lâu để thực phẩm tiết nhiều chất ngọt vào nước và chín dừ. Khác với món luộc, món ninh ăn luôn cả nước lẫn cái. Ninh không có nhiều món phong phú như các loại món ăn khác. Nhưng đặc biệt món “chân giò ninh măng ” lại là món ăn cổ truyền của dân tộc, thường có trong các bữa cỗ, nhất là Tết. Phương pháp ninh chỉ thích hợp đối với các nguyên liệu động vật dai, cứng, có lẫn cả xương, gân, bạc nhạc và một vài thứ thực vật ăn củ và củ, hạt có bột tươi hay khô.

Việc ứng dụng một cách thông thường nhất của phương pháp này là ninh xương lấy nước dùng ngọt để nấu các món ăn khác ( canh, phở, cháo…) . Trong cỗ bát thì nước dùng là thứ không thể thiếu được đối với các bát nấu.

Dựa vào tính chất, đặc điểm riêng, trong chuyên môn người ta chia làm hai loại:

1.Ninh làm bán thành phẩm ( ninh xương lấy nước ).

2.Ninh làm thành phẩm ( các món ninh )

Nhưng dù là loại nào thì kết quả phải đạt được yêu cầu là:

+ Nước phải trong và thơm ngon

+ Thực phẩm trong món ăn phải chín nhừ không nát.

Ðể đạt được yêu cầu trên, cách chế biến thông thường là bỏ thực phẩm cắt miếng to vào nhiều nước nguội, rồi mới đặt lên bếp đun.

Các thực phẩm phối hợp (măng, khoai, hạt sen…) bao giờ cũng bỏ vào ninh lẫn khi thịt đã chín mềm.

Nếu là ninh xương lấy nước dùng, thì sau khi hớt sạch bọt váng mới cho các gia vị thơm và ít gia vị mặn.

– Ðun nhỏ lửa, chỉ để nước sôi lăn tăn.

– Hớt bọt váng nhiều lần cho thật sạch.

Là phương pháp bỏ thực phẩm (đã rán hay xào) vào nước, đun nhỏ lửa trong thời gian lâu để làm cho thực phẩm thơm và chín dừ dần. Như vậy, quá trình làm món hầm là phải phối hợp cả rán (hay xào) và ninh. Do cách làm chín, các món hầm đều có mùi thơm, vị ngọt đậm đà và màu sắc hấp dẫn hơn các món ninh và luộc.

Nguyên liệu dùng làm các món hầm không nhiều. Thông thường chỉ áp dụng với những bộ phận thịt có lẫn gân, bạc nhạc hoặc lẫn cả xương bì. Không dùng thuỷ sản. Về thực vật chỉ giới hạn với rau ăn củ và củ hay hạt có bột. Về gia vị: ngoài các gia vị mặn, hầu hết món hầm đều dùng đến hành tỏi và bột. Có món dùng thêm rượu và gia vị tạo màu. Các món hầm đều được cấu tạo hỗn hợp cả thịt và rau.

Sau khi chế biến xong, món hầm phải đạt được yêu cầu:

-Cắt thái đều, nước hơi sánh mượt và ít (chỉ còn săm sắp cái).

-Dậy mùi thơm đặc trưng. Vị ngọt đậm đà, vừa ăn.

Món hầm thường ăn vào bữa chính. Trong các bữa tiệc ăn vào phần thứ.

Đun sôi nước,thả thực phẩm vào đảo đều cho gần chín rồi vớt ra chúng tôi dội nước sôi lên nguyên liệu 1 lần cho chín tới.

– Sản phẩm có thể ăn ngay (VD: tim, gan, bầu dục, óc chần), nhưng cũng có thể chế biến tiếp như các loại nguyên liệu thực vật như rau cải.

– Nguyên liệu thường được cắt,thái mỏng nhỏ(VD: thịt bò tái).

– Nhiệt độ nước phải đảm bảo 100 độ C và lượng nước phải rất nhiều.

– Thời gian làm chín rất nhanh,từ 1-3 phút. – Chỉ sử dụng những nguyên liệu dễ chín,nhanh chín ( VD: Nguyên liệu động vật: Tim, gan, bầu dục, thăn bò. Nguyên liệu thực vật thường sử dụng loại non, dễ chín).

Là phương pháp làm chín thực phẩm bằng cách dùng ít nước và gia vị (chủ yếu là gia vị mặn ), đun trong thời gian lâu để thực phẩm ngấm mặn và chín dừ. Cùng loại món ăn này còn có các món rim, rang mỡ cũng có mùi vị và màu sắc giống như kho.

Kho là món ăn thường có trong bữa ăn hàng ngày. Do cách làm chín kỹ, thực phẩm được ngấm mặn nên món ăn kho có thể để nhiều ngày.

– Kho khô, thành phẩm phải cạn hết nước, thường áp dụng để kho cá.

– Kho ướt, thành phẩm còn ít nước, thường áp dụng để kho thịt.

Nước của món kho có thể dùng để chấm rau luộc, dưa chua.

Ðặc biệt món “Cá kho khô “, ngày xưa còn được dùng để ăn với bánh chưng trong ngày Tết. Ngày nay ở phía Nam, món ” Thịt heo khô ” cũng được dùng trong dịp Tết để ăn với bánh Tết.

Do đặc điểm của phương pháp nấu, nên thực phẩm áp dụng thích hợp nhất để kho là các loại cá, một vài bộ phận thịt có lẫn mỡ, gân, bì của thịt bò, thịt lợn và gà, vịt. Ngoài ra, còn dùng một vài thứ rau củ – quả như : củ cải, su hào, măng tươi, dứa, chuối xanh, dừa v.v…. để kho lẫn với cá, thịt.

Các gia vị dùng để kho chủ yếu là gia vị mặn ( muối, nước mắm, xì dầu, tương ), và hầu hết món kho đề dùng nước hàng để tạo mầu. Các gia vị khác tuỳ thuộc vào nguyên liệu chính để kho.

Những món kho bằng nguyên liệu khác nhau, nhưng kết quả thành phẩm đều giống nhau. Vị mặn dịu. Thơm đặc trưng của gia vị mặn được cô sắc lại. Màu cánh dán non. Chín dừ, nếu là cá kho còn dừ cả xương, không nát.

Muốn làm được như vậy, thực phẩm để kho, cắt thái cỡ lớn và phải ướp kỹ với muối, nhất là cá. Riêng cá có thể nướng hay rán qua mỡ rồi mới kho càng ngon.

Có hai cách kho phổ biến:

Xếp thực phẩm đã ướp kỹ vào nồi, cho thêm gia vị thích hợp. Ðặt lên bếp đun cạn gia vị rồi mới chế nước sôi ngập thực phẩm, tiếp tục đun nhỏ lửa cho đến khi nước cạn và dừ thực phẩm. Ðun sôi nước, cho thêm gia vị thích hợp rồi bỏ thực phẩm đã ướp kỹ vào tiếp tục đun nhỏ lửa cho đến khi thực phẩm dừ và cạn nước.

Cơ bản là rim giống kho,vị cũng mặn. Nhưng so với kho thì nhạt hơn,lượng nước nhiều hơn món kho.Chủ yếu là ăn cái.Thực phẩm dùng cho món rim là những nguyên liệu mềm,dễ chín.Nguyên liệu cho món rim cắt miếng nhỏ.Thời gian chế biến ngắn hơn và thường chỉ sử dụng 1 loại nguyên liệu.

Là phương pháp bỏ thực phẩm (chủ yếu là các loại có mùi tanh – hôi ) đã được xào (hay rán qua) vào nồi có vung kín với ít nước, đun trong thời gian tương đối lâu, nhằm làm cho thực phẩm và gia vị có mùi thơm, chín mềm và tiết ra chất keo đông (gelatine).

Món om là món ăn dân tộc cổ truyền. Tuy nguyên liệu dùng để nấu món này không nhiều, nhưng cho đến nay món om vẫn được ưa thích, một số món được coi là đặc

sản thuần tuý dân tộc như: om dấm cái, om riềng mẻ, dựa mận v.v… Các gia vị đặc trưng của món này là riềng, mẻ (hay dấm cái), mắm tôm và nước nghệ vắt.

Quá trình làm chín chủ yếu bằng nhiệt của hơi nước được tích tụ trong nồi khi om; ngày nay người ta vận dụng để tạo ra nhiều món om khác nhau.

Khi chế biến các nguyên liệu chính và nguyên liệu phối hợp đều phải xào hay rán qua mỡ rồi mới cho nước để om.

Các gia vị nêm vào món ăn thì ướp là chính, gia giảm lúc nấu là phụ. Vì món ăn đòi hỏi phải ngấm nhiều gia vị mới nổi vị đặc trưng.

Sau khi chế biến xong phải đạt yêu cầu chung là:

-Nổi màu sắc của gia vị tạo màu.

-Vị đậm đà vừa ăn. Dậy mùi của gia vị đặc trưng.

-Chín mềm hay dừ, không nát.

-Nước om còn ít và hơi sánh keo.

Là phương pháp bỏ thực phẩm đã được ướp kỹ hay xào rán qua mỡ vào một dụng cụ riêng là lồng hấp hay nồi hơi, rồi dùng sức nóng của hơi nước với thời gian tương đối lâu để làm chín mềm.

Hấp thuộc loại món ăn chế biến cầu kỳ, thực phẩm chọn lọc kỹ, nên thường dùng vào các bữa tiệc. Chỉ có một số ít món được dùng trong bữa ăn hàng ngày với tính chất là vận dụng đơn giản như hấp trên cho xôi hay nồi cơm đã cạn nước.

Chế biến bằng cách này, món ăn giữ được độ ngọt đạm cao, chín mềm, không bị khô. có món còn giữ được cả hình dáng như trước lúc hấp.

Nguyên liệu được dùng để hấp chủ yếu là thịt gia cầm và các thủy sản. Còn thịt gia súc chỉ là nguyên liệu phối hợp, rất ít món dùng làm nguyên liệu chính.

Các thực vật chỉ giới hạn một vài thứ rau ăn củ và các loại nấm. Một số món hấp có dùng bột chỉ để làm sánh nước hấp khi ăn.

Phương pháp này không những chỉ để làm chín mà còn vận dụng để hâm hay giữ nóng thức ăn đã làm chín.

Yêu cầu thành phẩm của hấp là:

-Giữ được màu sắc của nguyên liệu.

-Dậy mùi thực phẩm. Vị ngọt đậm đà của chất đạm.

Nguyên liệu được để trong dụng cụ (chuyên dụng) kín.Rồi đặt trong nồi nước đun sôi.Trong quá trình chế biến,nguyên liệu nhận nhiệt gián tiếp từ hơi nước sôi và nước sôi được chuyển qua dụng cụ chứa nguyên liệu,nhờ đó nước kín và nguyên liệu đem tần được nóng lên và chín dần.

– Nguyên liệu sử dụng là nguyên liệu động vật có giá trị dinh dưỡng cao (VD: ba ba, hải sâm, gà, vịt, chim bồ câu tần với hạt sen,bóng bì,thuốc bắc), không sử dụng nguyên liệu thực vật.

– Nguyên liệu trước khi đem tần thường được ướp gia vị rồi bỏ vào dụng cụ chuyên dụng.

– Do truyền nhiệt gián tiếp nên thời gian tần rất lâu. Có thể từ 2h-5h,nên phụ thuộc vào kích thước và trọng lượng của nguyên liệu.

– Sản phẩm phải giữ được hình dạng ban đầu, hương vị đặc trưng, nước ngọt và thịt mềm.

Tráng rất giống đồ và hấp ở chỗ nguyên liệu nhận nhiệt trực tiếp từ hơi nước. Nhưng khác ở 1 số đặc điểm sau đây:

– Nguyên liệu thường được dùng là bột say nhỏ, mịn, ở trạng thái lỏng.

– Dụng cụ chứa nguyên liệu là khuôn vải,đặt trên miệng nồi đáy. Thời gian chế biến từ 20-30 giây.

– Sản phẩm có hình dạng mỏng,to bản,trạng thái dẻo dai hơn, giòn (VD: bánh phở, bánh cuốn).

– Sản phẩm tráng có thể đựoac ăn trực tiếp hoặc có thể chế biến tiếp.

Đồ tương tự như phương pháp hấp .Nguyên liệu thường là thực phẩm,thực vật giàu tinh bột (VD: gạo nếp, khoai, sắn và các sản phẩm chế biến từ chúng). Riêng gạo nếp trước khi đun hoặc đồ phải ngâm trước 5-6h.

Là phương pháp làm chín thực phẩm bằng ít chất béo, ở điểm sôi (dưới tác dụng của nhiệt), có phối hợp với ít nước, thời gian làm chín nhanh với nhiệt độ cao, nhằm đạt yêu cầu chín tới.

Món xào thuộc món ăn phổ thông được áp dụng rộng rãi trong kết cấu bữa ăn từ thông thường đến các bữa cỗ – tiệc. Đặc điểm nổi bật của món ăn này là áp dụng nguyên liệu và gia vị rất linh hoạt, thời gian làm chín nhanh, tạo ra nhiều sản phẩm phong phú và đa dạng. Có thể chỉ cần một ít mỡ nước với một thứ rau cũng làm được món xào (rau xào) hay nhiều thứ thực phẩm chọn lọc để làm món xào có

chất lượng cao (xào thập cẩm). Có nhiều món xào mang tên khác nhau, nhưng kết quả thành phẩm đều giống nhau:

Là món ăn khan, không có nước.

Vị không mặn, không nhạt.

Chỉ chín tới hay chín mềm, không dừ.

Tuy hầu hết các nguyên liệu là thịt gia súc, gia cầm, các thủy sản và các loại rau tươi hay khô hoặc muối chua đều có thể áp dụng để xào, nhưng cần lựa thứ non, mềm dễ chín, dễ ngấm nước béo. Không dùng nguyên liệu già có xơ cứng. Chất béo để xào phải tươi tốt. Có như thế mới đáp ứng được yêu cầu của thành phẩm.

Cách xào nói chung là: Thực phẩm thái mỏng đều hay thái chỉ. ướp kỹ thịt hay cá với các gia vị thích hợp (có thể chao qua mỡ sôi rồi mới xào). Rau không phải ướp, nhưng cũng có thể đem chần rồi mới xào.

Trước lúc ăn, rưới mỡ láng chảo đun nóng già, phi thơm hành tỏi và các gia vị khác (nếu có), bỏ thịt (hay cá) vào xào chín xúc ra. Xào tiếp các loại rau cho chín, nêm đủ các gia vị rồi mới trút thịt (hay cá) đã xào vào xóc đều lên là được. Nhắc ra, xúc vào đĩa, rắc hạt tiêu, rau mùi.

Làm như vậy mới đúng với nguyên tắc:

-Dùng ít mỡ và phải đun nóng già mới xào.

-Thao tác xào phải nhanh với nhiệt độ cao.

-Món xào hỗn hợp (thịt + rau) phải xào riêng từng thứ rồi mới trộn để tạo ra thành phẩm.

Là phương pháp dùng sức nóng trực tiếp của những tia nhiệt từ lò than/điện cháy đỏ phát ra tác dụng trực tiếp vào thực phẩm để biến đổi thực phẩm sống thành thực phẩm chín. Món nướng là món ăn ngon và hấp dẫn có từ lâu đời nhất. Đến nay phương pháp nướng vẫn được tồn tại phát triển rất phong phú cả về cấu tạo món ăn cũng như hình thức chế biến.

Hầu hết món nướng thường chỉ áp dụng vào thực đơn tịệc hay các bữa ăn đặc sản. Chỉ có một vài món phổ thông được áp dụng để ăn vào bữa phụ. Mỗi món nướng có nước chấm riêng.

Nguyên liệu để nướng chủ yếu là thịt gia súc, gia cầm và một số thuỷ sản.

Cần chọn loại mềm, dễ chín. Không có nguyên liệu là thực phẩm phối hợp. Chỉ một vài món dùng rau gia vị gói ngoài vỏ thưc phẩm trước khi nướng và có món khi ăn kèm rau ghém. Các gia vị chung chỉ là mắm, muối, hạt tiêu. Còn tuỳ thuộc nguyên liệu của từng món cụ thể mà sử dụng gia vị khác cho phù hợp. Làm món nướng cần có dụng cụ chuyên dùng và chất đốt riêng.

Có nhiều món nướng mang tên khác nhau, nhưng kết quả thành phẩm đều có những yêu cầu chung:

+Màu vàng tạo thành mê-la-nô- ít.

+Dậy mùi thơm của hiện tượng hun khói (fumaison).

+ Vị đậm đà của thực phẩm và gia vị đặc trưng.

+ Chín mềm, không dai, không khô khét.

+ Nước chấm dịu, không mặn gắt.

Cũng như phương pháp quay, khi chế biến món nướng cần có hai yếu tố: Ướp gia vị và điều chỉnh độ nhiệt.Khác với quay xiên là đặt thực phẩm quay cạnh lò than. Vì đặt thực phẩm hơ trên lò than với khoảng cách thích hợp, nên khi nướng dư vị của thực phẩm tiết ra rỏ xuống lò than, cháy bốc khói tác dụng vào thực phẩm do đó món nướng có mùi hun khói, nếu cứ để như vậy món ăn sẽ bị ám khói đen và có mùi khét. Để hạn chế hiện tượng này, khi nướng người ta phải ta quạt cho bớt khói, đồng thời cũng là tác động để duy trì độ nhiệt trong lò than. Để thực phẩm đem nướng không bị khô, khi nướng thỉnh thoảng phải quét mỡ nước bên ngoài.

Món nướng thường ăn vào phần khai vị hay là món chuyển tiếp giữa các phần trong món thực đơn.

15. Quay nướng bằng đốt nóng trực tiếp

Quay nướng bằng đốt nóng trực tiếp là phương pháp chế biến nhiệt mà nguyên liệu được đặt trực tiếp trên nguồn nhiệt (có thể tiếp xúc hay không tiếp xúc trực tiếp với nguồn nhiệt). Đốt nóng nguồn nhiệt, đặt nguyên liệu đã được sơ chế cách nguồn nhiệt một khoảng cách nhất định hay đặt ngay trên bề mặt nguồn nhiệt để làm chín. Trong khi chế biến phải điều chỉnh nhiệt độ và thay đổi bề mặt của nguyên liệu liên tục để nguyên liệu được tiếp xúc đều với nguồn nhiệt đến khi đạt độ chín cần thiết.

Nguyên liệu để quay chủ yếu là nguyên liệu có nguồn gốc động vật. Sơ chế thịt gia súc, gia cầm để nguyên con hoặc miếng to, bên trong bôi, nhồi gia vị và lá thơm, bên ngoài bôi các gia vị tạo màu. Nguyên liệu để nướng là thịt động vật pha miếng nhỏ được tẩm ướp gia vị hay có thể kết hợp nhiều loại nguyên liệu bao gói vào nhau; nguyên liệu thực vật là những nguyên liệu giàu tinh bột như các loại củ khoai, sắn…

Nhiệt độ môi trường được điều chỉnh bằng tăng giảm nhiệt độ nguồn nhiệt hoặc bằng điều chỉnh khoảng cách từ nguyên liệu đến nguồn nhiệt. Phương pháp quay dùng kỹ thuật xoay để điều chỉnh bề mặt nguyên liệu tới nguồn nhiệt, phương pháp nướng bằng lật trở dụng cụ giữ nguyên liệu. Thông thường nhiệt độ chế biến ban đầu thường cao để tạo lớp vỏ cho nguyên liệu, sau đó giảm nhiệt cho nguyên liệu chín dần vào trong.

Thời gian làm chín phụ thuộc kích thước của nguyên liệu, loại nguyên liệu trạng thái của nguyên liệu và nhiệt độ môi trường truyền nhiệt. Thông thường làm chín bằng cách này lâu hơn quay bằng chất béo.

Sản phẩm có lớp vỏ vàng hoặc đỏ cánh gián, mùi thơm, vỏ giòn, bên trong chín tới, vị ngọt đậm. Trong quá trình quay, nướng có thể phết thêm mỡ lên bề mặt để nguyên liệu đỡ bị khô.

Quay nướng trong lò nướng còn gọi là bỏ lò, nguồn nhiệt để làm chín là dụng cụ kín được đốt nóng bằng điện, ga để tạo ra không khí nóng, không khí nóng làm chín nguyên liệu. Nguyên liệu để nướng đặt trong lò, để quay được xiên bằng trục bằng sắt có gá giữ nguyên liệu và trục này tự xoay đều bằng môtơ.

Rang là phương pháp chế biến nhiệt gián tiếp qua dụng cụ chứa đựng. Dụng cụ chứa đựng nguyên liệu được đốt nóng (xoong, chảo, lập là). Cho nguyên liệu vào và khuấy đảo liên tục tới khi nguyên liệu chín tới độ cần thiết. Khi rang có thể sử dụng một số chất dẫn nhiệt trung gian như cát, muối sạch để ổn định nhiệt độ khi rang. Khi đó nguyên liệu được trộn lẫn với chất dẫn nhiệt trung gian, khi rang xong phải sàng lọc để tách nguyên liệu ra.

Nguyên liệu dùng để rang thường là hạt ngũ cốc, hạt nông sản. Nguyên liệu có kích thước nhỏ, trạng thái tươi hoặc khô. Để đảm bảo nguyên liệu chín đều nên chọn nguyên liệu có cùng trạng thái, kích thước để rang cùng một lần.

Nhiệt độ khi rang cần đều, ổn định, không cần nhiệt độ cao.

Thời gian làm chín nguyên liệu phụ thuộc vào kích thước, trạng thái, độ tươi, khô của nguyên liệu.

Sản phẩm rang có màu vàng đến nâu sẫm, có mùi thơm, thủy phần thấp, có độ giòn.

Thui là phương pháp chế biến nóng khô bằng cách đốt nóng trực tiếp nguồn nhiệt xung quanh nguyên liệu để tạo màu và đạt đến độ chín cần thiết cho nguyên liệu. Nguyên liệu đã sơ chế đặt trực tiếp nguyên liệu lên trên nhiên liệu đang cháy hay đốt nhiên liệu xung quanh nguyên liệu. Vừa đốt vừa xoay đều nguyên liệu để tạo màu và độ chín cần thiết.

Nguyên liệu thui chủ yếu là gia súc như: chó, dê, chân giò, bê… Thịt chó thui rồi mới mổ; dê thì mổ, nhồi lá thơm (sả, ổi, hương nhu, khúc tần…) vào bụng, khâu lại rồi mới thui. Khi sơ chế phải cẩn thận không làm rách da vì khi thui chỗ sước, rách da dễ bị nứt làm giảm chất lượng sản phẩm.

Nhiên liệu thường dùng là rơm, cỏ khô, lá khô, than… phải đảm bảo không độc, không có mùi vị lạ lẫn vào nguyên liệu. Đối với các con vật to thường dùng rơm, rạ để thui, sản phẩm có màu và mùi thơm của chất đốt. Trong chế biến còn sử dụng giấy bản quấn vào nguyên liệu để đốt như thui chân giò.

Thời gian thui phụ thuộc vào yêu cầu thành phẩm, vào kích thước con vật, vào nguồn nhiệt. Thui để tạo màu, mùi thơm nhanh hơn thui để làm chín sản phẩm.

Sản phẩm có màu vàng đến màu nâu, có mùi thơm hấp dẫn. Sản phẩm thui thường để chế biến tiếp như: thịt chó, dê, chân giò… dùng cho các món luộc, nấu, hấp.

Vùi là phương pháp làm chín nguyên liệu bằng cách đặt nguyên liệu bên trong nguồn nhiệt, nguyên liệu nhận được nhiệt và chín đến độ cần thiết.

Nguyên liệu sử dụng thường là nguyên liệu tươi; nguyên liệu thực vật giàu tinh bột (ngô, khoai, sắn); nguyên liệu động vật được bao gói bằng đất, bùn, trong dụng cụ chứa đựng khác như (nồi đất, nồi gang, quả dừa, tre, nứa tươi ). Nguyên liệu trước khi vùi có thể còn tươi hoặc đã được làm chín trước như: om cá, om ngô…

Nhiệt độ làm chín là nhiệt độ trực tiếp của than, nhiên liệu thường là than củi, rơm, rạ, trấu…

Thời gian vùi tương đối nhanh, phụ thuộc vào loại nguyên liệu, kích thước và trạng thái của nguyên liệu, nhiệt độ môi trường.

Sản phẩm có lớp vỏ màu đen, có mùi thơm hấp dẫn, thủy phần thấp. Một số sản phẩm vùi như: ngô, khoai, sắn, cá, gà, chim, cơm lam…

là phương pháp làm chín thực phẩm bằng chất béo (có thể 1 ít hoặc ngập trong chảo mỡ, dầu). Nguyên liệu đem rán có thể để nguyên hoặc tẩm bột trước. Phương pháp rán sẽ không dùng phối hợp với nước như xào.

Rán ngập mỡ là phương pháp chế biến món ăn bằng dầu, mỡ. Nguyên liệu ngập hoàn toàn trong dầu, mỡ. Đun nóng dầu, mỡ, bỏ nguyên liệu ngập trong dầu, mỡ rán cho tới khi nguyên liệu tạo được lớp vỏ và độ chín đạt yêu cầu, vớt ra. Mỗi lần rán xong hay trong dầu, mỡ có nhiều tạp chất phải lọc kỹ tránh làm ảnh hưởng đến chất lượng món ăn. Các nguyên liệu không có mùi vị đặc biệt rán trước.

Nguyên liệu để rán tương đối đa dạng. Nguyên liệu động vật như gia súc, gia cầm, cá. Nguyên liệu thực vật như các loại củ giàu tinh bột, quả… Nguyên liệu bao gói như nem, bọc bột. Sơ chế nguyên liệu thái miếng mỏng vừa cho dễ chín, cắt thái kích thước đồng đều. Những nguyên liệu có bao gói như nem phải có biện pháp chống bung nhân ra môi trường. Những nguyên liệu bao bột cần phải dính chắc vào nguyên liệu.

Lượng chất béo dùng để rán nhiều gấp 3-4 lần khối lượng nguyên liệu một lần rán. Tỷ lệ dầu mỡ nhiều đảm bảo nhiệt độ ổn định khi cho nguyên liệu vào rán, khi dầu, mỡ nóng già thì mới nên cho nguyên liệu vào.

Nhiệt độ khi rán phụ thuộc vào loại chất béo (dầu nhiệt độ tối đa là 160oC độ còn mỡ khoảng 190oC) và cấp nhiệt cho phù hợp với từng loại sản phẩm. Không nên cấp nhiệt nhiều quá dễ làm cháy nguyên liệu và oxy hóa chất béo.

Thời gian rán phụ thuộc vào kích thước của nguyên liệu và nhiệt độ của chất béo. Nếu nguyên liệu cùng loại, cùng kích thước thì rán ngập mỡ thời gian chín nhanh hơn rán không ngập mỡ.

Sản phẩm của rán ngập mỡ có lớp vỏ vàng đều đẹp, mùi thơm đặc trưng.

Rán không ngập mỡ là phương pháp chế biến món ăn bằng chất béo mà khi rán nguyên liệu chỉ ngập một phần trong chất béo. Cho dầu, mỡ vào dụng cụ, khoảng 10-15% lượng nguyên liệu. Đun dầu, mỡ nóng già, đặt lần lượt từng miếng nguyên liệu vào khắp mặt của dụng cụ lật trở các mặt nguyên liệu cho tiếp xúc đều với đáy dụng cụ tới khi nguyên liệu chín đạt yêu cầu chế biến. Dụng cụ sử dụng để rán phải sạch sẽ, phẳng mặt để dễ dàng tiếp xúc với bề mặt nguyên liệu. Đối với dụng cụ rán bằng lập là chống dính, không được sử dụng vật cứng để lật trở nguyên liệu hay đánh rửa, luôn bảo vệ tốt bề mặt chảo. Nguyên liệu đem rán cần có các mặt phẳng để dễ rán, cần cắt thái đồng đều để có thể rán từng mẻ nguyên liệu. Trong quá trình rán luôn luôn lọc bỏ các vẩn, tạp chất trong dầu, mỡ tránh làm cháy, khét làm giảm chất lượng của nguyên liệu.

Nguyên liệu rán bằng phương pháp này thường cắt lát nhỏ hoặc dàn mỏng với mục đích nhanh chín và chín đều.

Nhiệt độ và thời gian khi rán phụ thuộc vào loại chất béo, kích thước nguyên liệu và giai đoạn rán.

Sản phẩm rán không ngập mỡ có lớp vỏ màu vàng rơm đến vàng nâu nhưng màu không đều khắp do bề mặt nguyên liệu không tiếp xúc đều được với chất béo hay bề mặt dụng cụ. Độ giòn cũng không bằng rán ngập mỡ.

Cập nhật thông tin chi tiết về 6 Món Ăn Chay Theo Phương Pháp Thực Dưỡng Ohsawa Đơn Giản Ngon Miệng trên website Raffles-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!