Bạn đang xem bài viết Canh Bánh Đa Cá Rô Đồng – Nét Đẹp Văn Hóa Trong Ẩm Thực Việt được cập nhật mới nhất trên website Raffles-hanoi.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Trong hương vị ẩm thực đồng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ, món ăn từ con cá rô đồng luôn dễ ăn và có sức hấp dẫn lạ kỳ. Có nhiều món ngon như xôi cá rô đồng, cá rô kho, cá rô rán giòn, cá rô kho tương…nhưng đậm đà phong vị hơn cả là canh bánh đa cá rô đồng.
Canh bánh đa cá rô không bị ngán, dễ tiêu hóa nên ăn vào mùa nào cũng hợp. Cái ngọt thơm từ nước xướng, từ thịt cá, từ vị gạo bánh đa, từ cái mát của rau gia vị tao nên hương vị lạ thường. Hãy tưởng tượng một tô canh nóng với màu trắng của bánh đa, màu vàng rộm của cá rán, li ti trứng cá, màu đỏ cà chua, xanh mát của thì là, dọc mùng hay rau cải, rau cần. Tất cả cùng hòa quện trong bát nước dùng vàng trong. Thêm chút tỏi ớt đủ đánh thức vị giác các vị chua chua, cay cay, mặn, ngọt, hăng nồng.
Để nấu được bát canh ngon cần chọn những con cá rô đồng mình vàng đầy đặn,vây sắc.Cá rô không quá to, cỡ khoảng 2 ngón tay là vừa. Phần thịt cá sau khi tách xương thật khéo còn được tẩm ướp chế biến theo cách rán giòn hay rim mặn tùy theo khẩu vị, thói quen vùng miền. Bánh đa (hay gọi là mì) dùng với canh cá là màu trắng hay đỏ nhưng sợi phải dai, mềm.“Linh hồn” của bát canh bánh đa cárô đồng chính là nước dùng. “Nước dùng làm nên sự khác biệt nên phải đầu tư. Bởi cảm nhận đầu tiên với món ăn chính là nước dùng. Nguyên liệu chính là xương mình cá, đầu cá. Để tạo thêm độ ngọt hơn nữa có thể sử dụng thêm xương ống ninh hoặc sử dụng nước củ quả hầm để làm ngọt tự nhiên. Nước dùng phải trong thanh mát và đảm bảo chất dinh dưỡng.
Chỉ gồm chút nguyên liệu đơn giản dễ kiếm tìm nhưng với sự kết hợp hài hòa, canh bánh đa cá rô đồng trở thành nét đẹp văn hóa trong ẩm thực Việt. Và, cứ ngon ngọt như vậy, món ăn bình dị này đã đi vào tiềm thức của mỗi người con xa xứ.
Xa quê canh cánh bên lòngThèm ăn canh cá rô đồng….. mắm kho.
Nét Văn Hóa Ẩm Thực Xứ Mường
Phong phú ẩm thực 4 Mường
Nhắc đến ẩm thực xứ Mường, du khách nghĩ ngay đến rượu cần Hòa Bình, một loại rượu trứ danh được làm từ men lá. Hẳn là có bí quyết riêng nên loại rượu cần xuất xứ ở vùng Mường Vang (Lạc Sơn) có hương vị quyến rũ, say nồng và hết sức đặc biệt. Theo bà Bùi Thị Cùi, một trong những hộ đang gìn giữ thương hiệu rượu cần đặc sản Mường Vang, rượu cần được chế biến từ gạo nếp nương, vỏ trấu nếp được rang thơm và men lá làm theo bí quyết gia truyền, việc ủ chế biến vẫn theo cách thủ công và dân dã. Giống như bản sắc cổ truyền, rượu cần là món đồ uống không thể thiếu vắng mỗi khi gia đình, làng xóm có việc vui.
Cũng cùng một loại nguyên liệu là gạo nếp nương, đồng bào dân tộc Mường Hòa Bình còn chế biến thành món cơm lam vừa dẻo, vừa thơm. Nơi làm ra món cơm lam đặc sản, ngon nhất trong 4 Mường là Mường Động (Kim Bôi). Với món cơm lạ miệng, thay vì thói quen từ ngàn xưa, dễ làm, cách làm cơm lam ngày nay có chút khác so với trước, không phải làm cơm lam cho qua bữa mà còn là sản phẩm du lịch để thực khách thưởng thức. Ngoài nguyên liệu gạo nếp, người Mường còn thêm vào ít nước cốt dừa để khi ống cơm lam nướng chín trên bếp than, bếp củi, mùi thơm ngậy của nước cốt dừa hòa quyện với vị ngọt bùi của gạo nếp, mùi thơm đặc trưng của tre, nứa non tạo thành hương vị vô cùng tinh tế. Khi ăn cơm lam có thể ăn chung với các món thịt gà, măng chua, nhưng ngon nhất vẫn là cơm lam chấm với muối vừng.
Thưởng thức đặc sản rượu cần thương hiệu Mường Vang.
Sẽ thật thiếu sót nếu khách phương xa lên với Hòa Bình mà chưa được thưởng thức mâm cỗ lá, một cách thức thể hiện ẩm thực được xem là độc đáo nhất của dân tộc Mường. Món ăn thường được chế biến từ những nguyên liệu sẵn có ở địa phương, qua đôi bàn tay khéo léo của người dân mà trở thành đặc sản. Nguyên liệu cho mâm cỗ có thể là lợn, gà, trâu, bò, nhưng phổ biến nhất vẫn là thịt lợn. Lợn được nuôi dân dã nên thịt có độ săn chắc, ít mỡ, vị thơm ngọt tự nhiên. Ngoài ra còn có các món ăn khác trên mâm cỗ lá như cá suối nướng, gà nấu măng chua, muối chấm hạt dổi… Xen lẫn các món thịt là món măng luộc, rau rừng đồ. Mâm cỗ lá cũng không thể thiếu món xôi, thường được gói vuông vức trong lá chuối đã hơ lửa cho mềm, tượng trưng cho tinh hoa của đất. Đặc biệt, cỗ là được bày trên lá chuối rừng, loại bánh tẻ được hơ lửa cho dẻo và có mùi thơm ngai ngái đặc trưng, biểu tượng sự gắn bó của cư dân với núi rừng.
Nếu du khách có dịp thăm thú các bản làng xứ Mường, ngoài ẩm thực độc đáo của dân tộc Mường, ẩm thực của cộng đồng các dân tộc khác cũng rất ấn tượng. Đồng bào Mông ở 2 xã vùng cao Hang Kia, Pà Cò (Mai Châu) có món bánh dày rất ngon. Một số món ăn của người Mông được nhiều thực khách ưa chuộng như gà Mông, gạo nếp nương, rau cải với cách chế biến đơn giản mà lạ miệng. Vùng đồng bào dân tộc Dao các huyện: Đà Bắc, Cao Phong, Kim Bôi có món ăn nổi tiếng là rượu hoẵng, thịt muối chua… Người Thái ở Mai Châu, người Tày ở Đà Bắc có cách chế biến riêng để tạo nên ẩm thực của dân tộc mình như xôi nếp nương ngũ sắc, thịt nướng vùi tro, cá đồ lá đu đủ, rượu men lá…
Trải nghiệm giá trị văn hóa
Với “kho tàng” ẩm thực xứ Mường, thực khách không chỉ được thưởng thức nhiều món ăn ngon, hấp dẫn mà còn được trải nghiệm giá trị văn hóa. Tiêu biểu và độc đáo là mâm cỗ lá, thoạt nhìn tưởng đơn giản nhưng không hề đơn giản, bởi người Mường còn gửi gắm trong đó cả tâm tình với vạn vật, với con người… Qua mâm cỗ lá thể hiện tính cộng đồng, tình cảm tương thân, tương ái, nề nếp gia đình… là những yếu tố giúp cộng đồng tồn tại, phát triển. Thưởng thức mâm cỗ lá, thực khách không chỉ cảm nhận hương vị đặc biệt của các món ăn chấm với muối hạt dổi mà còn tìm thấy trong đó thứ tình cảm mộc mạc, chân thành của con người thông qua cách bày cỗ; cảm nhận được văn hóa, phép tắc thông qua cách bày biện, trân trọng thức ăn trên mâm cỗ. Hay như văn hóa rượu cần, để làm ra những vò rượu quý, người Mường có bí quyết gia truyền và yêu cầu sự tỉ mỉ cao ở từng công đoạn. Trong đời sống hiện đại ngày nay, dù có các loại đồ uống đa dạng nhưng rượu cần vẫn là đồ uống đặc sản truyền thống rất được thực khách trong và ngoài nước ưa thích. Nét văn hóa rượu cần chứa đựng tính gắn kết cộng đồng, tình yêu và sự sẻ chia. Trong các sự kiện trọng đại của cộng đồng, ngày lễ Tết, ngày vui đôi lứa… không thể không có rượu cần. Bên cạnh hình thức uống nội bộ trong gia đình, uống rượu góp thì uống cộng đồng mường bản là hình thức phổ biến, ý nghĩa và là cuộc rượu vui nhất bởi có sự tham gia của đông người, mọi người đến tự giác vào cuộc chung vui.
Theo các chuyên gia chuyên nghiên cứu về văn hóa Mường nói chung, ẩm thực xứ Mường nói riêng thì nguyên liệu, cách chế biến và thưởng thức ẩm thực người Mường khác biệt với người Kinh và các dân tộc khác. Nguyên liệu để nấu ăn đảm bảo độ sạch, tươi ngon, hoàn toàn lấy từ tự nhiên hoặc qua quá trình nuôi trồng tự nhiên. Chính vì vậy, các món ăn luôn có vị tự nhiên, không cần phải chế biến cầu kỳ, phức tạp. Trong mâm cơm, thực khách thường thấy đa phần món ăn của người Mường được chế biến theo dạng hấp, luộc, xào, coi trọng hương vị tự nhiên của món ăn. Do đó, người ăn được thưởng thức tinh túy của ẩm thực trong từng nguyên liệu và quan trong nữa là tốt cho sức khỏe. Ngoài ra, người Mường rất chuộng các vị chua, cay, đắng trong các món ăn của mình. Món ăn khoái khẩu là măng chua, lá nồm, rau sắn muối, ớt, hạt dổi, lá đu đủ và quả đu đủ non… Nhờ biết tiết chế và xử lý, kết hợp nguyên liệu nên các món ăn có hương vị đặc biệt, mới lạ và rất dễ ăn.
Bữa cơm ngày thường và ngày lễ Tết của người Mường rất khác nhau. Vào ngày lễ, người Mường thường dâng cơm cho ông bà, tổ tiên, thần giữ nhà, thần cây… nên món ăn thường chế biến cầu kỳ, phong phú hơn, không quá coi trọng cách trình bày mà tập trung vào nguyên liệu nấu. Một nét văn hóa đẹp trong tập tục của người Mường nằm ở việc quan tâm đến nết ăn nết uống của con người từ lúc còn nhỏ trong mỗi gia đình. Đó chính là nết ăn uống coi trọng tôn ti trật tự, kính trên, nhường dưới, lòng hiếu khách và hạnh phúc khi được nhiều người quý mến và ở lại nhà ăn cơm, tính cởi mở giao tiếp trong ăn uống…
Không quá cầu kỳ, sang trọng nhưng với nguyên liệu tươi ngon, cách chế biến đơn giản mà tinh tế, người Mường đã tạo ra rất nhiều món ăn hấp dẫn, thơm ngon, chiều lòng thực khách. Cùng với cảnh đẹp thiên nhiên, nét đẹp phong tục, tập quán, ẩm thực với giá trị văn hóa độc đáo là một trong những điểm nhấn thu hút, quyến rũ du khách đến xứ Mường khám phá, trải nghiệm và thưởng thức.
Bình Dị Và Ngọt Lành Canh Bánh Đa Cá Rô Đồng
(VOV5) -Chỉ gồm nhưng chút nguyên liệu đơn giản dễ kiếm tìm nhưng với sự kết hợp hài hòa, canh bánh đa cá rô đồng trở thành nét đẹp văn hóa trong ẩm thực Việt.
Trong hương vị ẩm thực đồng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ, món ăn từ con cá rô đồng luôn dễ ăn và có sức hấp dẫn lạ kỳ. Có nhiều món ngon như xôi cá rô đồng, cá rô kho, cá rô rán giòn, cá rô kho tương…nhưng đậm đà phong vị hơn cả là canh bánh đa cá rô đồng.
Canh bánh đa cá rô không bị ngán, dễ tiêu hóa nên ăn vào mùa nào cũng hợp. Cái ngọt thơm từ nước xướng, từ thịt cá, từ vị gạo bánh đa, từ cái mát của rau gia vị tao nên hương vị lạ thường. Hãy tưởng tượng một tô canh nóng với màu trắng của bánh đa, màu vàng rộm của cá rán, li ti trứng cá, màu đỏ cà chua, xanh mát của thì là, dọc mùng hay rau cải, rau cần. Tất cả cùng hòa quện trong bát nước dùng vàng trong. Thêm chút tỏi ớt đủ đánh thức vị giác các vị chua chua, cay cay, mặn, ngọt, hăng nồng.
Với người xa quê lâu như chị Hải Yến, canh bánh đa cá rô đồng là thức quà quê tuyệt vời nhất: “Ở bên CHSéc không có món này, về Việt Nam thưởng thức ngon tuyệt vời. Cá rô mua về nấu với cải xanh chan với bún, mì, miến rất là mát và bổ. Đây là món quê hương tôi đặc biệt yêu thích, lâu lắm rồi tôi mới được ăn.”
Định cư nhiều năm ở Đức, chú Duy Khánh lúc nào cũng thèm bát canh bánh đa cárô đồng chuẩn hương vị quê nhà. Bởi món ngon này còn gợi nhớ ký ức thời thơ ấu bình yên ở một vùng nông thôn Bắc Bộ: “Tôi quê gốc Hưng Yên, món canh cá gần dốc Lã lúc nào cũng đông khách ăn sáng. Hồi còn bé, bố mẹ nấu rất nhiều canh cá rô đồng. Hương vị nay cũng khác. Ngày xưa mẹ đi làm đồng hay bắt được mấy con cá rô ron rồi nấu với rau cải. Nước canh chỉ là xương cá giã ra. Đơn giản sao mà ngon đến thế. Món này đặc biệt nhiều người thích không phải chỉ riêng tôi.”
Để nấu được bát canh ngon cần chọn những con cá rô đồng mình vàng đầy đặn,vây sắc. Chị Thu Phương, chủ quán cá rô đồng Bà Là ở 197 Kim Ngưu cho biết, bây giờ không có nhiều cá rô đồng tự nhiên nhưng để bảo đảm độ chắc ngọt của thịt cá, quán hàng phải đặt những nơi nuôi uy tín giống tự nhiên. Cá rô không quá to, cỡ khoảng 2 ngón tay là vừa. Phần thịt cá sau khi tách xương thật khéo còn được tẩm ướp chế biến theo cách rán giòn hay rim mặn tùy theo khẩu vị, thói quen thực khách vùng miền. Bánh đa (hay gọi là mì) dùng với canh cá là màu trắng hay đỏ nhưng sợi phải dai, mềm.
Theo chị Phương “linh hồn” của bát canh bánh đa cárô đồng chính là nước dùng. “Nước dùng làm nên sự khác biệt nên phải đầu tư. Bởi cảm nhận đầu tiên của thực khách với món ăn chính là nước dùng. Nguyên liệu chính là xương mình cá, đầu cá. Để tạo thêm độ ngọt hơn nữa quán hàng sử dụng xương ống ninh. Cái khác biệt nữa là chúng tôi sử dụng nước củ quả hầm để làm ngọt tự nhiên. Nước dùng phải trong thanh mát và đảm bảo chất dinh dưỡng.”
Để tạo nên hấp dẫn cho món ăn đồng quê này còn là các loại rau gia vị như gừng, nghệ, thì là, hành, ớt, hoa chuối, kinh giới:”Miếng cá rô ăn bùi ngọt hơn khi tẩm ướp cần thêm nghệ tươi để tạo màu vàng óng cho bát canh. Nghệ cũng giúp khử tanh và làm rắn cá. Rau thì là phải chọn loại càng già càng tốt. Bí quyết là không nên bỏ phần cậng rau vì đó mới thơm và phải thái rất nhỏ. Cái giòn sần sật quện với ngọt lịm của thịt cá rô thì vô cùng tuyệt vời. Thứ rau đi kèm không thể thiếu khác là hoa chuối và kinh giới. Chất đồng quê đúng ngày xưa còn phải là rau cải ta. Ăn phải có gừng, tỏi. Nếu có chút đậu rán, mắm tôm nữa càng khác hẳn. Đấy là cách ăn ở Hưng Yên quê tôi.”, chú Duy Khánh cho biết,
Cũng là món canh từ con cá rô đồng nhưng các quán hàng ở Thái Bình, Hải Dương, Hà Nam, Hải Phòng hay Hưng Yên lại có những kiểu chế biến khác nhau, tạo cho món ăn sắc thái ẩm thực rất riêng. Nếu như bát canh cá Hải Phòng không thể thiếu vị cay nồng của ớt, sợi mì to bản màu đỏ đậm đà thì bánh đa trong canh cá Phủ Lý nhỏ mềm hơn và không thể thiếu cải ngọt. Còn món canh cá rô Quỳnh Côi (Thái Bình) đôi khi biến tấu bằng cá trắm, cá quả. Thịt cá được rim với nước mắm hay cà chua thay vì rán vàng giòn.
Bởi thế, theo người sành ẩm thực như bác Huy Sơn, canh bánh đa cá rô đồng là những nét chấm phá mộc mạc trong bức tranh đa sắc màu của ẩm thực Việt. “ Với một bát canh rô đồng như thế này thì khi sống ở nơi xa, rất gợi nhớ hình ảnh quê hương. Nó ngon vì nước dùng là nguyên chất cá rô đồng chứ không phải là hóa chất. Với món ăn đồng quê này nên duy trì và quảng bá cho người nước ngoài, trong nước thưởng thức. Bởi đó là đặc sản ngon bổ và rẻ tiền của quê hương, đất nước”.
Chỉ gồm nhưng chút nguyên liệu đơn giản dễ kiếm tìm nhưng với sự kết hợp hài hòa, canh bánh đa cá rô đồng trở thành nét đẹp văn hóa trong ẩm thực Việt. Và, cứ ngon ngọt như vậy, món ăn bình dị này đã đi vào tiềm thức của mỗi người con xa xứ.
Xa quê canh cánh bên lòng Thèm ăn canh cá rô đồng….. mắm kho.
Mai Liên
Bữa Cơm Gia Đình, Văn Hóa Ẩm Thực Việt Nam
Văn hóa ẩm thực Việt Nam đã trải qua hàng nghìn đời, nhưng những giá trị tốt đẹp, nét độc đáo vẫn được gìn giữ và lưu truyền đến tận hôm nay, nhất là văn hóa dùng cơm trong bữa ăn của người Việt.
Ăn uống là nhu cầu thiết yếu của của cuộc sống cả vạn vật và cả con người, không chỉ đáp ứng nhu cầu tồn tại, duy trì sự sống mà ăn uống còn là sự thể hiện nền văn hóa của một dân tộc, một quốc gia. Trong văn văn hóa ẩm thực của người Việt Nam trong bữa ăn gia đình đóng vai trò quan trọng, nó thể hiện tình cảm, sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình.
1. Ý nghĩa bữa cơm gia đình Việt Nam
Bữa cơm gia đình của người Việt Nam ta ẩn chứa trong đó nhiều đạo lý quan trọng đó là là sự thể hiện tình cảm yêu thương gắn bó giữa các thành viên qua việc cùng nhau ăn cơm, trò chuyện. Sau một ngày làm việc vất vả, mệt nhọc, ông bà, cha mẹ, con cháu cùng quây quần bên mâm cơm dù đạm bạc hay sang trọng cũng đầy ắp tiếng cười vui.
Hình ảnh người mẹ, người vợ tất bật bên trong bếp với hương thơm của các món ăn, hương khói bếp theo gió thoang thoảng luôn là những hình ảnh khó quên trong ký ức của mỗi người trong gia đình. Dù những món ăn đó không phải là món mỹ vị nhưng chứa đựng sự chân tình và tấm lòng của người nấu.
Bữa cơm gia đình là linh hồn của hạnh phúc, sự yêu thương, giúp gắn bó và nuôi dưỡng tình cảm giữa các thành viên, các thế hệ trong gia đình. Bữa cơm chính là nơi thể hiện nét đẹp nhất trong văn hóa ẩm thực của người Việt Nam.
2. Văn hóa dùng cơm của người Việt
Tại sao người Việt lại có cách gọi mâm cơm gia đình, vì từ ngày xưa, người Việt có thói quen dọn cơm vào mâm, tất cả món ăn được dọn chung trong một mâm và dọn cùng một lúc, khác với cách dùng cơm của phương Tây, dọn từng món khi thưởng thức hết mới dọn món tiếp theo. Trong mâm cơm của người Việt chủ yếu dùng đũa, cách cầm đũa cho khéo để gắp thức ăn không rơi cũng cần cả quá trình học.
Trong bữa ăn của người Việt, thể hiện tinh thần “kính trên nhường dưới”, thể hiện sự kính trọng yêu thương dành cho người lớn tuổi, những phần thức ăn ngon, phần cơm mềm dẻo được mời ông bà, cha mẹ. Ngoài ra, trẻ em là đối tượng được ưu tiên trong bữa cơm gia đình, thể sự yêu thương, bao bọc, che chở của các thành viên trong gia đình. Người Việt rất hiếu khách, nên khách mời luôn được sắp xếp một vị trí ưu tiên trong mâm.
Nói về các món ăn, trong bữa cơm gia đình luôn có cơm trắng và bát nước chấm, còn lại là những món mặn, canh, xào, luộc. Thực đơn bữa cơm sẽ khác nhau tùy thuộc vào từng vùng miền.
3. Ẩm thực trong mâm cơm ba miền Bắc, Trung, Nam
Các món ăn của người miền Bắc thường có vị vừa phải, không quá cay nồng, không quá béo ngọt. Nước chấm được người miền Bắc ưa dùng là nước mắm loãng hoặc mắm tôm. Các món mặn chủ yếu được chế biến từ thịt, cá.
Các món ăn miền Bắc thường thanh đạm hoặc có vị chua nhẹ như món canh sấu nấu sườn heo, rau muống luộc, thịt kho.
Nếu ẩm thực miền Bắc là sự nhẹ nhàng – tinh tế, thì ẩm thực miền Trung là sự đậm đà mạnh mẽ, người Trung có thói quen nêm gia vị đậm và cay nồng hơn. Nổi bật là mắm ruốc, mắm tôm chua, các loại nguyên liệu được sử dụng cũng phong phú và đa dạng hơn.
Khác với ẩm thực miền Bắc và miền Trung, khẩu vị của người miền Nam thiên về vị ngọt, cay và béo. Điều này thể hiện qua các món mắm cá sặc, mắm ba khía, hay những món ăn nấu cùng nước dừa. Người miền Nam ưa thích các món ăn từ hải sản đặc biệt là các loại cá.
Văn hóa ẩm thực trong bữa cơm của người Việt thể hiện thông qua cách giao tiếp, cư xử giữa các thành viên trong gia đình. Trải qua nhiều thay đổi lịch sử, kinh tế, xã hội nhưng ý nghĩa của bữa cơm gia đình vẫn giữ nguyên giá trị tinh thần và là một nét đẹp trong văn hóa ẩm thực của người Việt Nam chúng ta.
➥Bạn muốn thưởng thức, dùng món cơm thơm hương vị truyền thống như: cơm lam, cơm nắm muối vừng, cơm nắm giò, xôi ruốc, xôi xéo, xôi gấc…những món cơm – xôi được dùng cho bữa sáng – trưa, ăn nhanh tại văn phòng, đặc biệt tiết kiệm, tiện lợi khi đi chơi, du lịch, dã ngoại.
☎ Vui lòng gọi số 096 831 8765 để đặt mua. Món cơm ngon sẽ được đưa đến bạn.!
❖ Cửa hàng Món Cơm Ngon: Ngõ 554 Trường Chinh – Ngã Tư Sở
Cập nhật thông tin chi tiết về Canh Bánh Đa Cá Rô Đồng – Nét Đẹp Văn Hóa Trong Ẩm Thực Việt trên website Raffles-hanoi.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!