Mon Ngon Goi Du Du / Top 12 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Raffles-hanoi.edu.vn

Video Goi Xoài Tôm Mon Ngon Moi Ngay

Có thể bạn thích công thức này Những món gỏi xoài ngon miệng Gỏi xoài cá sặc có vị mằn mặn chua chua, gỏi xoài tôm thịt lại mang đến vị chua ngọt dễ

Có thể bạn thích công thức này Những món gỏi xoài ngon miệng

Gỏi xoài cá sặc có vị mằn mặn chua chua, gỏi xoài tôm thịt lại mang đến vị chua ngọt dễ chịu cho người ăn.

Ngoài bánh chưng, bánh tét, giò chả, thực đơn ngày Tết của gia đình bạn sẽ phong phú và hấp dẫn hơn với những món gỏi xoài bình dị nhưng ngon miệng.

Gỏi xoài tôm khô Xoài xanh trộn với tôm khô cùng ít rau răm và lạc rang mang đến món ăn vừa dân dã vừa ngon miệng. Gỏi xoài tôm khô không quá cầu kỳ, nhưng phải lựa chọn được trái xoài vỏ xanh ruột vàng, khi ăn giòn giòn và có vị chua vừa miệng là được.

Xoài xanh gọt bỏ vỏ, thái sợi hoặc cắt miếng vừa ăn. Tôm khô chọn loại nhỏ, ngâm trong nước cho sạch cát và nở mềm, sau đó vớt ra xả lại sạch với nước và để ráo. Đặt chảo lên bếp, làm nóng dầu, cho tôm khô vào xào thơm và tắt lửa. Pha nước mắm chanh tỏi ớt hơi ngọt, trộn xoài xanh và tôm khô với nước mắm đã pha, rau răm, húng quế xắt nhỏ trộn thật đều với gỏi. Dọn món ăn ra đĩa, trang điểm lên bên trên ít hành phi và lạc rang. Gỏi xoài tôm khô có thể ăn không với bánh phồng, bánh tráng nướng hoặc làm món ăn với cơm đều ngon miệng.

Gỏi xoài ốc giác Nếu như gỏi xoài tôm khô đem đến cho bạn vị chua cay thì gỏi xoài ốc giác dai ngọt thịt tự nhiên của ốc cùng vị chua đặc trưng của xoài rất lạ miệng. Với lợi thế về sự tổng hòa chua, cay, ngọt, mặn… và những lát thịt ốc có độ mỏng vừa, gỏi xoài ốc giác luôn làm mềm lòng thực khách.

Món gỏi làm không khó, nhưng mất thời gian nhất là quá trình chế biến ốc giác. Ốc phải cọ rửa thật sạch vỏ và cho vào nồi luộc chín. Vớt ốc ra để nguội, lấy phần thịt ốc ra, rửa lại bằng nước sạch, để ráo và thái thành từng lát mỏng vừa ăn. Xoài xanh sau khi gọt bỏ vỏ được bằm và bào thành sợi nhỏ.

Sau khi chuẩn bị sẵn xong nguyên liệu, cho cả hai vào trong chiếc bát lớn, rưới nước mắm ớt tỏi đã pha sẵn lên trên và trộn thật đều, nêm lại vừa ăn là được. Khi đã chán ngấy với bánh chưng, bánh tét trong ngày Tết, đĩa gỏi xoài ốc giác được điểm xuyết thêm màu xanh của rau cùng vị chua chua đặc trưng sẽ giúp bạn xua đi cảm giác ngấy, đem lại sự ngon miệng rất dễ chịu cho bạn và gia đình.

Gỏi xoài cá sặc Món gỏi với vị chua chua của xoài hòa trong cái mằn mặn của cá sặc rất dễ ăn và ngon miệng. Chế biến món này không khó với hai thành phần chính là xoài xanh, cá sặc, điểm xuyết thêm ít rau xanh và ớt tươi…

Xoài xanh lựa trái còn tươi, hơi chuyển màu vàng là được. Xoài gọt bỏ vỏ, thái sợi hoặc bằm nhỏ, ngâm trong nước đá lạnh để giữ độ giòn cho xoài. Nếu xoài chua quá, bạn có thể trộn xoài với đường và bóp sơ cho xoài bớt chua. Khô cá sặc được nướng chín hoặc chiên và và xé thành từng miếng nhỏ. Pha nước mắm ớt tỏi để trộn gỏi, nước mắm đừng mặn quá, hơi ngọt là được.

Cho xoài và cá vào trong thố, rưới nước mắm lên và trộn thật đều. Cho gỏi ra đĩa, điểm xuyết thêm một ít rau răm, lạc rang giã nhỏ. Gỏi xoài cá sặc rất dễ ăn, bạn có thể làm món ăn với cơm hoặc làm món nhâm nhi bên ly rượu ngày xuân.

Tổng hợp & BT: Cẩm Vân (NauNgon.com)

Du Lịch Cửa Lò: Những Món Ăn Ngon Khó Cưỡng (P2),Du Lich Cua Lo Nhung Mon An Ngon Kho Cuong P2

Du Lịch Cửa Lò: Những Món Ăn Ngon Khó Cưỡng (P2)

Tham gia tour du lịch Cửa Lò, du khách không thể bỏ qua việc thưởng thức các món ẩm thực mang hương sắc vùng biển Miền Trung này. Bên cạnh những món ăn hải sản, Cửa Lò còn có nhiều món ăn truyền thống đặc trưng cho đời sống văn hóa người dân nơi đây. Phần 2 của bài viết, chúng tôi tiếp tục giới thiệu đến các bạn những đặc sản Cửa Lò hấp dẫn.

Du Lịch Cửa Lò: Những Món Ăn Ngon Khó Cưỡng (P1)

1. Cháo Nghêu Cửa Lò

Món ngao nấu canh được khá nhiều người biết đến nhưng với cách nấu tại vùng biển Cửa Lò thì thật sự khác biệt. Từ nguyên liệu, gia vị cho đến cách chế biến đều đem đến cho người thưởng thức những cảm nhận mới lạ. Có lẽ, chính những đặc trưng ẩm thực vùng miền đã khiến bát canh ngao trở nên ấn tượng với du khách gần xa. Trong cảm nhận chung của du khách, bát canh ngao bình dị ăn kèm cà muối như xua đi cái nắng gắt gao của miền Trung đồng thời khiến chuyến đi thêm phần thú vị.

Thông thường người Hà Nội nấu canh ngao, hến bao giờ cũng luộc sơ, tách bỏ vỏ chỉ lấy phần thịt nấu canh. Canh ngao Cửa Lò khiến du khách tròn mắt ngạc nhiên khi bắt gặp những con ngao còn nằm nguyên trong vỏ. Thú vị nhất là việc vừa xì xụp húp canh vừa đưa tay nhặt ngao, nhẩn nha tận hưởng phần thịt ngao tươi, ngọt, dai dai còn nguyên vị biển.

Đã là quà quê thì cái gì cũng ngon cũng quý. Bởi thế, với người Nghệ An thì món bánh đúc là hảo hạng, đặc sản trên cả tuyệt vời. Bởi thế, người xứ Nghệ vẫn kháo nhau không chỉ bởi hương vị đậm đà của bánh đúc mà còn công nhận rằng: Bánh đúc chứa đựng một thứ văn hóa đặc biệt, như thể nó đại diện cho hình bóng quê nhà.

Bánh đúc được làm từ gạo tẻ trắng, phải là những hạt gạo tẻ đều đều, không pha lẫn với những hạt gạo khác. Gạo đem giã thành bột, rây cho nhỏ, rồi ủ kỹ để qua đêm cho bột nở đều. Lấy một hòn vôi bằng quả cà pháo, bỏ vào nước cho tan, đánh đều, để lắng rồi gạn lấy nước trong. Bột gạo trộn với nước vôi trong, đổ vào nồi quấy nấu cho chín. Thứ bột khi đã chín thì có thể chế biến thành nhiều dạng, đổ ra lá chuối thành từng tảng, đổ ra đĩa, có thể làm nhiều tầng hình tròn, tầng dưới có đường kính rộng hơn tầng trên, thành hình cái tháp chín lớp.

Vào những ngày giỗ, ngày Tết, bánh được làm cầu kỳ hơn là mua thêm thịt lợn nạc, băm nhỏ, rim chín, thái nhỏ hành lá, đổ lẫn vào nồi bánh khi còn ở trên bếp. Bột chín đổ ra thành bánh đúc có nhân thịt, hành, có nơi người ta cho đậu phộng vào nấu cùng để có bánh đúc đậu.

Người ta khoái ăn bánh đúc chấm với nước mắm cáy, nước mắm cua đồng pha với chanh, ớt hoặc chấm tương. Ăn miếng bánh mềm dẻo trong miệng, người ta thấy hương vị thân quen của bột gạo ngon, vị đậm gần gũi của thịt, vị mặn, chua, cay của gia vị. Bánh ngon là bánh dẻo, không ướt, không khô, không bị “khê”. Làm bánh đúc cũng đòi hỏi nhiều công sức và kinh nghiệm, quan trọng nhất là chọn gạo và ủ bột.

Ngày nay, nhiều gia đình còn dùng bánh đúc chay thay cơm, không đòi hỏi phải có nhiều thức ăn mà vẫn thấy ngon, no bụng, rẻ tiền. Ở quê nhà, vào ngày giỗ, ngày Tết mỗi nhà đều bỏ ra một ngày, hì hục chọn gạo, xay bột, làm bánh. Một ngày đó, mỗi người trong gia đình, trong thôn xóm thật đầm ấm thân tình bên những câu chuyện làm ăn, chuyện gia đình, chuyện chăn nuôi, trồng trọt.

Xứ Nghệ vốn nổi tiếng là vùng đất lươn với loại lươn đồng mình thon, thịt chắc, “hai vành” vàng bụng đen hơn hẳn lươn ở xứ khác. Lươn đã được chế biến khéo léo dưới những bàn tay tài hoa của người đầu bếp để thành bát cháo lươn thơm ngon đặc biệt. Cháo lươn là một trong những món ăn đặc sản của xứ Nghệ. Không chỉ người dân xứ Nghệ yêu thích món cháo này, mà người ở nhiều vùng quê khác cũng đã biết tiếng và không bỏ lỡ dịp thưởng thức khi có điều kiện.

Đầu tiên, lươn được làm sạch nhớt, đem luộc rồi gỡ lấy thịt. Lươn ở đây không mổ bằng dao mà dùng cật tre để rọc thịt lươn. Khâu chế biến tưởng chừng như đơn giản mà rất kỳ công. Nếu ở miền Nam, món ăn nấu từ thịt lươn bao giờ cũng đi liền với sản thì Nghệ An, đồng hành với lươn là nghệ. Màu vàng tươi của nghệ không chỉ đem lại cho thịt lươn vẻ hấp dẫn đặc biệt mà hương vị của nghệ còn làm cho thịt lươn thêm đậm đà, thơm, ngọt. Nghệ đã góp phần xua tan đi cái vị tanh cố hữu của lươn.

Lươn ở đây không mổ bằng dao mà dùng cật tre để rọc thịt lươn

Thịt lươn sau khi luộc chín được xào với nghệ, ớt băm nhỏ, hành phi, hạt tiêu và nhất là không thể thiếu được những cọng hành tăm chỉ mọc ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh. Cũng như nghệ, thứ hành tăm lá nhỏ xíu chỉ có ở vùng đất xứ Nghệ này không chỉ “làm đẹp” cho bát cháo sánh ngọt với màu xanh rất ngon mắt mà còn tạo cho cháo lươn Nghệ An có hương vị đặc biệt riêng bởi vị ngọt thơm, cay nồng rất đặc trưng. Khác với cách chế biến món cháo lươn ở Hà Nội, người chế biến cháo lươn ở Nghệ An không xào thịt lươn đến săn khô. Miếng thịt lươn được lọc to bản, vuông vức, khi xào xong vẫn mềm, ngọt, thấm đẫm vị thơm cay của hành, ớt, tiêu, óng ánh sắc vàng của nghệ, điểm màu xanh của lá hành tăm, lá răm, chỉ nhìn thôi cũng đủ thấy hấp dẫn.

Cháo cũng được nấu rất kỳ công, và đặc biệt. Người ta đạp đạp hoặc băm nhuyễn xương sống của con lươn, nấu lấy nước súp, rồi lọc bỏ xương vụn đi, sau đó mới đem ninh cháo. Nhờ có nước ngọt nấu từ chính xương sống của con lươn nên cháo lươn Nghệ An có vị ngọt rất riêng: đậm nhưng lại rất thanh, không thấy vị béo của mỡ, khác hẳn với vị ngọt của cháo nấu từ thịt gà hay xương lợn. Gạo để nấu cháo cũng được chọn kỹ lưỡng. Loại gạo tẻ nào ngon nhất mới được người Nghệ An chọn để nấu cháo lươn. Sự kỳ công của công đoạn ninh cháo thể hiện ở chỗ gạo phải được rắc từ từ để cháo không vón cục và người nấu tuyệt đối không được dùng đũ để cháo không bị nát hay bị nồng. Đặc biệt hơn nữa, người xứ Nghệ để nguyên hạt gạo mà ninh cháo chứ không giã nhỏ hay xay gạo thành bột. Cháo ninh thật kỹ, hạt gạo nở bung mà không nát, cháo sánh đều, không đặc cũng không loãng.

Loại gạo tẻ nào ngon nhất mới được người Nghệ An chọn để nấu cháo lươn

Khi ăn, người ta múc cháo ra bát, xúc một ít thịt lươn xào thơm phức, thêm một chút nước sốt vàng ngậy, một chút hành, răm và những mảnh hạt tiêu bắc li ti nhỏ mịn. Cháo lươn Nghệ An ăn với bánh mỳ rán giòn vàng ươm hay bánh mướt lạ miệng.

4. Nhút Thanh Chương

Xứ Nghệ không chỉ có phong cảnh non nước hữu tình mà còn có rất nhiều món ăn dân dã đậm đà bản sắc của vùng quê nghèo khó. Món nhút là một trong vô vàn những món ăn như thế. Nhút là cách gọi quen thuộc của người miền Trung, là quả mít muối mặn ăn với cơm tựa như món dưa muối của người miền Bắc hay món kim chi của xứ Hàn vậy.

Người miền Trung vẫn kể rằng, quê hương gió Lào cát trắng lam lũ quanh năm, cơm gạo cái gì cũng thiếu nên phải tận dụng tất cả những thứ có thể ăn được thay cơm. Mà mít thì nhà nào cũng sẵn trồng, mít thường được luộc chấm với chẻo (một thức chấm cũng rất đặc biệt của người Nghệ An), mà mít ngày càng nhiều không ăn hết nên đã nghĩ cách muối mặn để ăn dần, từ đó món nhút “chào đời” gắn với quê hương khốn khó.

Huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An trồng được giống mít ngon nhất xứ Nghệ.

Dọc miền Trung có nhiều nơi làm nhút nhưng ngon nhất, nổi tiếng nhất vẫn là nhút do người Thanh Chương làm ra tại đất Thanh Chương, bởi nơi đây nổi tiếng trồng được giống mít ngon của tỉnh Nghệ An. Thường thì mỗi năm chỉ có một mùa mít, nên nhút được muối dùng để ăn quanh năm, tùy từng mùa mà chế biến những món ăn khác nhau.

Vào mùa đông gió rét, nhút xào thịt ba chỉ nêm ớt, đường ăn với cơm nóng rất ngon, vị chua chua của nhút, ngọt của đường, cay cay của ớt, sợi nhút sánh lên quyện lấy mỡ của thịt ăn rất ngậy và giòn. Vào mùa hè, nhút có thể làm nộm tai heo nhấm rượu hay đem nấu canh cá chua, canh lạc ăn bùi bùi chua chua rất lạ miệng lại có tác dụng thanh nhiệt rất tốt cho cơ thể. Hay chỉ đơn giản, nhút chấm nước mắm tỏi, rau kinh giới ăn cơm canh cũng ngon không kém.

Nhút là đặc sản miền Trung khiến nhiều người “thòm thèm” vị mặn, cay và giòn tan ở miệng

được ví như kim chi của xứ Hàn.

Cách muối nhút cũng dân dã hệt như tên gọi của nó. Có thể làm nhút muối xổi ăn ngay trong hai ba ngày, hay muối mặn để dành ăn quanh năm. Nhút có hai loại, nhút làm từ mít xanh hay xơ mít chín đều tuyệt, tuy nhiên nhút làm từ mít xanh thì cầu kì trong cách chế biến hơn. Nếu là mít xanh phải chọn quả ương ương, trẩy trái mít từ trên cây xuống còn tươi nguyên, gọt sạch vỏ gai bên ngoài, khi gọt nên để xả dưới vòi nước để tránh nhựa mít dính vào tay rất khó rửa. Gọt xong thì dùng dao băm hoặc thái thành sợi từ ngoài vào trong, sao cho toàn bộ múi, xơ, hạt mít đều được xắt nhỏ. Sau khi thái xong, đem ngâm vào nước gạo qua một đêm cho mít hết nhựa, sợi mít được trắng, rồi vớt ra phơi săn dưới nắng. Tiếp theo, cho tất cả vào vại sành rồi trộn muối, vò cho mít mềm ra và muối ngấm đều sợi mít.

Còn với xơ mít chín thì đơn giản hơn, chính là tận dụng phần xơ của quả mít chín sau khi ăn hết phần múi, nhặt xơ rửa sạch. Tương tự như mít xanh, xơ mít cũng được trộn muối và vò cho ngấm đều vào mít. Khi cho mít vào vại, có thể cho thêm ớt, mía, lá gừng hay củ sả, rau ngải và nước ngập mít, tùy theo khẩu vị của từng gia đình mà nêm các gia vị cho nhút đậm đà hơn. Nhưng đặc biệt, nhút phải nén chặt bằng phên tre, chặn gạch, sao cho nhút không nổi lên mặt nước và bị thâm đen. Chỉ vài ngày trở ra là ăn được.

Nhút ăn giòn giòn, mặn của muối, cay xè của ớt, và dậy mùi thơm của mít, thanh ngọt của mía đường…”quyện” một vị ngon rất đặc biệt. Ngày nay, trong mỗi bữa cơm của người miền Trung không thể thiếu món ăn dân dã, bình dị này. Tuy nhiên, ở những thành phố lớn, nhút lại có tên trong menu ẩm thực đặc sản mà khiến nhiều người muốn ăn, ăn một lần nhớ mãi, cứ “thòm thèm” cái vị cay chua mặn ngọt, hệt như dư vị của mảnh đất ân tình xứ Nghệ …

Du Lịch Cửa Lò: Những Món Ăn Ngon Khó Cưỡng (P1),Du Lich Cua Lo Nhung Mon An Ngon Kho Cuong P1

Du Lịch Cửa Lò: Những Món Ăn Ngon Khó Cưỡng (P1)

Nghệ thuật ẩm thực Cửa Lò sẽ làm cho du khách có một chuyến đi thêm phần hấp dẫn và thú vị khiến cho những ai đã đến với du lịch Cửa Lò

Nghệ thuật ẩm thực Cửa Lò sẽ làm cho du khách có một chuyến đi thêm phần hấp dẫn và thú vị khiến cho những ai đã đến với du lịch Cử a Lò

Mực Nháy Cửa Lò

“Mực nháy” có nơi còn gọi là mực nhảy, tên gọi này dùng để chỉ những con mực được ngư dân vừa bắt lên khỏi nước biển còn nguyên độ tươi và được đưa vào chế biến và thưởng thức ngay tại chỗ khi còn tươi nguyên. Đây là một món đặc sản của Nghệ An. Thông thường nhiều người vẫn quen gọi là mực nhảy nhưng tên gọi chính xác là “mực nháy” vì con mực mới bắt lên còn sống, mình trong suốt, làn da lúc nào cũng nhấp nháy những đốm lân tinh.

“Mực nháy” có nhiều cách chế biến. Có cách đơn giản là dùng ngay tại chỗ, câu mực được con nào nướng luôn con ấy trên tán đèn măng sông. Con mực tươi rói nướng lên vừa thơm vừa giòn vừa ngọt, chấm với tương ớt cùng muối tiêu pha chanh rất ngon.

Mực luộc cũng là cách ăn thông dụng nhưng không lạ miệng bằng ăn tái, du khách thích ăn con nào cầm râu con đó nhúng vào nồi nước đang sôi trong chốc lát rồi vớt ra thưởng thức. Ăn mực sống thì phải chọn con mực vừa mới câu lên khỏi mặt nước, bỏ hết nội tạng thái miếng vát chanh vào ướp một lúc. Sau đó gắp miếng mực tươi cong chấm vào chén mù tạt cay sực mùi hạt cải.

Mực hấp là món nhanh, ngon và hấp dẫn. Món mực nhảy hấp làm đơn giản, cần rửa sạch mực, lấy túi để nguyên con cho vào nồi, giã ít gừng tươi trộn đều, cho ít nước dừa hoặc bia, đậy kín nồi rồi nhóm lửa hấp đến khi nước sôi thì mực sẽ chín, có thể thêm hành lá sau đó vớt ra sắp đều trên đĩa và thưởng thức.

Ngoài ra còn có thể nhóm lửa bên bờ biển nướng, xào hay đem vào các quán bình dân đúc các loại bánh… Ăn loại mực này thực khách sẽ cảm nhận được độ tươi ngọt, thịt mực vừa giòn vừa dai nên người ăn có cảm giác sảng khoái, ăn no nê mà không ngán.

Ngoài ra câu mực nhảy và thưởng thức tại chổ cũng là một loại hình giải trí kết hợp với thưởng thức đặc sản rất thú vị của du khách. Những năm gần đây, kết hợp với sự phát triển du lịch, nghỉ mát, dịch vụ câu mực nhảy bằng thuyền thúng ở Cửa Lò đã trở thành một thú tiêu khiển hấp dẫn nhiều du khách. Dịch vụ này đã tạo nên nét độc đáo, đem lại bản sắc riêng cho du lịch Cửa Lò .

Cá Giò Bảy Món Cửa Lò

Vài năm nay, nhờ nuôi thành công loại cá giò nên Cửa Lò có thêm một loại đặc sản mới. Cá giò là loại cá mập chanh, cá trưởng thành có trọng lượng khoảng 30 kg, rắn chắc và có hình như khúc giò nên người ta thường gọi là cá giò. Giống cá này được nhập từ Nauy, hiện nay Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I đã tạo giống thành công và đang nuôi thí điểm 10 lồng ở Đảo Ngư.

Cá giò có thể chế biến thành 7 món ăn hấp dẫn mà độ dinh dưỡng vẫn được đảm bảo:

– Món cá gỏi

– Cá hấp sả

– Lòng cá xào

– Lẩu cá

– Cháo cá

– Vây cá rán

– Da chiên dòn

Lòng cá xào

Cá giò là món ăn cao cấp hơn cả cá hồi, có độ dinh dưỡng cao nhưng không gây béo phì nên được nhiều du khách rất ưa chuộng.

Nước Mắm Cửa Lò

Trước đây, cư dân Cửa Lò đa số làm nghề đánh cá biển. Nhưng những người trực tiếp đi đánh cá lại không làm nước mắm, mà công việc này đều do các chủ thuyền đảm nhiệm. Họ kiêm cả dịch vụ vận tải đường biển. Mỗi chủ có vài ba chiếc thuyền mành, họ đổ nước mắm vào chum rồi cho xuống thuyền mang đi bán ở Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế…

Để làm nước mắm, khâu đầu tiên là chọn cá. Cá để ướp nước mắm phải là cá nục hoặc cá thu, cá nục có nhiều đạm hơn. Sau đó cho vào thùng đóng bằng gỗ vàng tâm có nẹp đai thật chặt để ủ. Nếu cá còn tươi thì ướp 5 đấu cá, 1 đấu muối, nếu cá đã ướp ngoài biển thì muối ít hơn. Cá được ủ từ 9 đến 12 tháng, bao giờ cá thành chợp, ngấu đến độ cuối cùng thì được dùng. Để nước mắm thêm thơm ngon, ngư dân pha chế nước mắm với thính làm bằng gạo hoặc đậu rang và mật mía, thắng đặc rồi đổ nước cho thêm muối vào quấy đều, lóng lấy nước rồi đem nấu nước mắm.

Nước mắm Cửa Lò, loại đặc biệt được để lâu, có ngâm vừng vàng (thêm chất béo) dùng chống rét cho người đi biển mùa đông, tăng thêm sức khoẻ cho thợ lặn, làm thuốc trị bệnh đau bụng gió, bụng bão. Trong mâm cơm, có chút nước mắm đầu nõ(còn gọi là nước mắm cốt), mùi thơm nức mũi, gắp miếng thịt 3 chỉ chấm vào, miếng thịt cong lại, chấm xôi vào ăn ngon muốn ăn mãi. Biếu ai một chai nước mắm Cửa Lò, họ quý hơn vài ba con cá thu hay dăm cân thịt lợn nạc. Nước mắm Cửa Lò bán ở đâu, các bà nội trợ cũng thích mua, vì không những chấm dưa, chấm rau ngon hơn mà kho cá, thịt cũng trội mùi. Nhờ có nghề làm nước mắm mà cư dân Cửa Lò có cuộc sống ổn định và ngày càng trở nêm khá giả. Để phát huy nghề truyền thống, đáp ứng nhu cầu của nhân dân và du khách, hiện nay nghề nước mắm Cửa Lò đang được quy hoạch thành làng nghề, hợp tác xã để xây dựng thương hiệu nước mắn Cửa Lò trở thành một sản phẩm đặc trưng của văn hoá ẩm thực miền biển xứ Nghệ.

Mắm Ruốc Cửa Lò

Gọi là ruốc nhưng mắm ruốc xứ Nghệ không được làm từ thịt lợn như người Bắc vẫn biết. Ruốc ở đây là tên một loài tép biển, thân nhỏ hơn tép đồng. Nếu được nếm thử một miếng mắm ruốc, cảm nhận cái ngọt từ thịt ruốc, cái mặn mòi của biển cùng bát cơm trắng nóng trong những ngày mưa dầm, chắc hẳn du khách dù khó tính trong chuyện ăn uống cũng phải tấm tắc khen ngon.

Về vùng biển miền Trung du khách dễ dàng cảm nhận thấy mùi vị của ruốc biển ở khắp nơi. Bởi lẽ hầu hết nhà nào cũng có dự trữ thùng mắm to trong nhà làm thức ăn dự trữ ăn cả năm. Là món ăn dân dã song làm mắm ruốc cũng đòi hỏi sự cầy kỳ và kỹ lướng không thua kém những món ăn phức tạp khác. Phải chọn con ruốc tươi, tuyệt đối không dùng nước lã để rửa vì ruốc sẽ bị thối rữa. Ruốc sau khi rửa phải được xốc đều trên chảo với muối hạt. Mắm ngon không những phải có mùi thơm nhẹ, vị vừa phải, không quá mặn, mà còn phải có màu đỏ au hấp dẫn.

Làm mắm thì phức tạp nhưng thưởng thức thì lại cực kỳ đơn giản. Mắm ruốc được sử dụng như một gia vị không thể thiếu trong bữa ăn của nhiều gia đình Nghệ An, có thể dùng làm nước chấm, ăn kèm với bún hay chế biến nhiều món ăn khác như: nêm canh, cháo ruốc, mắm ruốc rim hay mắm ruốc kho thịt… Tuy vậy theo những người dân chính tay làm ra loại “đặc sản” này thì mắm ruốc ngon nhất là dùng ăn thô với khế chua và bún, vừa ngon mà lại thấy hết được mùi vị nguyên sơ của mắm. Thêm lát ớt tươi làm món ăn vừa chua vừa cay đem lại cảm giác rất lạ, kích thích mọi giác quan.

Món ăn mắm ruốc kho thịt

Mùa con ruốc kéo dài từ tháng giêng đến tháng tư âm lịch hàng năm. Vào mùa ruốc ngư dân nhà nào nhà nấy tấp nập bận rộn huy động từ già trẻ, trai gái đi kéo ruốc. Con ruốc mang về nhặt rửa sạch sẽ đem phơi khô làm mắm hoặc bán cho các nhà máy đóng hộp xuất khẩu. Tuy “rất sẵn”, giá lại rẻ xong mắm ruốc lại là món ăn yêu thích của rất nhiều người. Nếu là người lạ lần đầu tiếp xúc với thứ mắm này chắc hẳn sẽ thấy khó chịu như những ai không ăn được mắm tôm mà phải ngửi mùi thì với những người con vùng biển Nghệ An này thứ mùi đó lại gắn bó, rất đỗi thân thương.

Du Lịch Cửa Lò: Những Món Ăn Ngon Khó Cưỡng (P3),Du Lich Cua Lo Nhung Mon An Ngon Kho Cuong P3

Du Lịch Cửa Lò: Những Món Ăn Ngon Khó Cưỡng (P3)

Mảnh đất Nghệ An hồn hậu, địa linh nhân kiệt đã sản sinh ra nhiều đặc sản mà ai “lỡ” nếm thử một lần cũng vương vấn mãi không thôi. Những món ngon của Nghệ An mang chất riêng đặc biệt đến nỗi bất cứ ai có cơ hội được thưởng thức đều nhớ mãi không quên… Phần 3 của bài viết, chúng tôi tiếp tục giới thiệu đến các bạn những món ăn ngon hấp dẫn khi tham gia chuyến du lịch biển Cửa Lò.

Du Lịch Cửa Lò: Những Món Ăn Ngon Khó Cưỡng (P1)

Mảnh đất Nghệ An hồn hậu, địa linh nhân kiệt đã sản sinh ra nhiều đặc sản mà ai “lỡ” nếm thử một lần cũng vương vấn mãi không thôi. Những món ngon của Nghệ An mang chất riêng đặc biệt đến nỗi bất cứ ai có cơ hội được thưởng thức đều nhớ mãi không quên… Phần 3 của bài viết, chúng tôi tiếp tục giới thiệu đến các bạn những món ăn ngon hấp dẫn khi tham gia chuyến du lịch biển Cửa Lò.

1. Mắm Cua Đồng

Từ cua đồng, người ta có thể chế biến được rất nhiều món, món nào cũng rất ngon và đậm đà hương đồng ruộng như: cua đồng rang muối, lẩu cua đồng, canh cua nấu với rau khoai lang, rau cải, măng rừng, bún cua… Những món ấy hầu như người dân vùng quê nào cũng biết ăn, biết làm. Riêng có một món mà chỉ một số nơi như Hương Sơn, Đức Thọ, Thạch Hà…đã “sáng chế” và duy trì đến tận bây giờ – mắm cua đồng. Mắm cua còn gọi là mắm đam có vị cay, ngọt, ăn mãi không thấy chán. Vị ngọt của cá, vị mặn của mắm, mùi thơm của gừng và vị cay nồng của ớt ngấm xuống tận đáy cổ. Dù bụng đã no mà vẫn còn cảm thấy thèm thèm.

Mắm cua được làm chủ yếu từ cua đồng và 1 số phụ gia khác như thính ngô, riềng, hạt tiêu, hành tăm, nghệ và đặc biệt là phải có vỏ quả tắt (một loại quýt rừng có mùi rất thơm). Chẳng biết ai đã nghĩ ra cách cho vỏ tắt vào mắm cua nhưng quả là cách phối hợp rất mang lại hiệu quả rất cao. Quy trình làm mắm cua cũng lắm công phu. Cua đem về ngâm trong nước lã chừng vài hôm cho nhả hết bùn đất, sau đó cho vào cối đá giã nhuyễn, thêm vào vài gáo nước lã rồi vớt ra lược lấy nước cua. Sau đó cho muối hạt vào, đun sôi thành mắm cua tươi. Muốn cho thơm ngon, thêm vào vài lát gừng hay vài lát măng tre, ớt chín.

Mắm cua tươi múc ra tô còn bốc hơi bay mùi thơm phức, ngả mầu, vàng ươm, nổi lên lớp gạch đặc quánh. Mắm này ăn với bún thì ngon tuyệt! Nếu thêm vào một ít rau thơm nữa thì mùi vị càng hấp dẫn. Còn muốn có mắm cua chua để được lâu ngày thì lúc giã cua, lược lấy nước cua xong cho thêm thật nhiều muối hạt, khuấy đều. Xong cho vào hũ sành đậy kín rồi đặt cạnh bếp củi. Sau khoảng 7 ngày là đã dậy lên đầy đủ hương vị của đồng quê với vị ngọt của thịt cua, vị béo của gạch cua và mùi thơm của các loại phụ gia. Mắm cua có thể dùng nguyên như thế hoặc một số người lại chế biến thêm lần nữa bằng cách chưng lên với tỏi, hành phi mỡ.

Dù chế biến bằng cách nào thì mắm cua cũng rất thơm ngon và có thể dùng với cơm nóng và rất nhiều loại rau luộc như: ngọn khoai lang, rau cải, rau mùng tơi…Thế nên, những ai đã thưởng thức, đã trót mê hương vị của loại mắm này thì sẽ nhớ đến tận mùa sau.

Cam Vinh Nghệ An là một đặc sản lâu đời, có hương vị thơm, ngọt đặc trưng được người tiêu dùng ưa chuộng. Cam Vinh quả tròn đều, mọng nước, vàng đều. Màu vàng của cam Vinh là màu vàng tươi chanh pha với màu xanh, chứ không phải màu vàng da cam. Kể cả phần tép cam cũng vàng nhẹ chứ không phải màu vàng cam. Cam Vinh nghệ an không được trồng trên đất Vinh, nhưng tập trung buôn bán ở Vinh, thành thị lâu đời của miền đất gió Lào nên Cam được đặt tên theo tên của thành phố.

Nguồn Cam Vinh được trồng chủ yếu trên địa bàn Xã Minh Hợp – Huyện Quỳ Hợp – Nghệ An và được sự quản lý bởi Nông trường quốc doanh Xuân Thành và Nông trường quốc doanh 3/2. Hiện tại khu vực này được cả chứng nhận chỉ dẫn địa lý và chứng nhận VietGAP, tuân thủ đầy đủ quy trình kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm. Giá thành cam Vinh cao, mỗi năm thu hoạch một mùa, nên đắt hơn các loại cam bình thường khác trên thị trường. Phải đến 90% cam tự xưng là cam Vinh không phải là cam Vinh.

Cam Vinh thường được dùng để ăn miếng bổ cau, ép lấy nước cam, xay lấy sinh tố. Phần vỏ cam ép lấy tinh dầu. Phần hạt cam cũng được dùng để làm nước gội đầu.

3. Bánh Đa Đô Lương

Từ lâu Bánh đa vừng đen đã không chỉ là một món ngon được ưa thích của vùng Đô Lương xứ Nghệ mà nó còn trở nên nổi tiếng với bạn bè trên khắp đất nước. Bánh đa đơn sơ, mộc mạc nhưng mang vị ngon của quê hương qua bàn tay chế biến tài hoa của những người thợ làm một món quà nhỏ đầy ý nghĩa. Những chiếc bánh tròn, xinh như chiếc lá sen, dày hơn, nhiều vừng đen hơn so với các loại bánh tráng ở miền Nam hay miền Bắc.

Bánh đa được làm từ bột gạo, tiêu, tỏi và các gia vị khác. Những nguyên liệu này tuy dễ kiếm nhưng phải đảm bảo nhiều yêu cầu khắt khe để có được chiếc bánh ngon. Gạo phải là thứ gạo trắng, tuyệt đối không lẫn trấu hay cám lọt vào, nếu không sẽ làm cho bánh bị cợn, vẩn đục gây mất ngon. Gạo được xay nhuyễn với nước rồi trộn với thứ vừng (mè) đen hảo hạng, không có hạt vỡ cùng với tỏi giã nhỏ, tiêu đâm mịn và những gia vị vừa đủ rồi tráng bằng nồi hấp. Khi bánh chín thì vớt ra, cho lên các giá để phơi cho đến khi bánh khô giòn. Công đoạn tráng bánh khá công phu, đòi hỏi sự khéo léo của người thợ. Nếu người thợ tráng hơi non tay thì bánh không có được độ đều và dày cần thiết để khi bánh đã khô có thể nướng hoặc chiên sẽ phồng đều mà không bị vẹo bánh.

Ở Đô Lương có nhiều làng làm bánh, nhưng nổi tiếng nhất và ngon nhất là bánh của làng Vĩnh Đức ở thị trấn. Các cụ cho biết, sở dĩ bánh làng Vĩnh Đức ngon nhất do mạch nước ở đây làm cho cây lúa làng có hương vị đặc trưng riêng. Do đó, khi lấy nguyên liệu ở nơi khác về làm bánh thì cũng không ngon như bánh làm bằng nguyên liệu tại chỗ. Còn các nguyên liệu phụ, vừng làm cho cái bánh thêm vị bùi bên cạnh độ ngọt của bột gạo, tiêu và tỏi làm cho bánh thơm, khi ăn có vị cay nồng dễ chịu. Muốn ăn bánh thì người ta nướng lên bằng than củi.

Bánh đa là thứ bánh dân dã, dễ ăn kèm với các món khác hoặc ăn riêng cũng được. Thông thường, bánh được ăn kèm với bánh mướt (một thứ bánh cũng tráng bằng bột gạo nhưng ăn ngay khi còn nóng). Cái dẻo của bánh mướt quấn vào một miếng bánh đa, chấm vào bát nước mắm cay khi cắn lên nghe tiếng “rốp” thật đã biết bao! Bây giờ đời sống cao, người ta thường ăn bánh mướt kèm với giò, chả nhưng nhiều người vẫn nhớ và thích ăn cái kiểu “nửa khô nửa ướt” ấy. Ngoài ra, món “bún giá cá ruốc” sẽ ngon nhờ một miếng bánh đa, bỏ lên ít bún, thêm ít giá sống và một mẩu nhỏ cá hấp, rồi chấm vào bát ruốc đã đâm ớt vắt chanh. Vị cay nồng hòa cùng vị ngọt bùi thêm tí chua khiến khi ăn mồ hôi túa ra thật sảng khoái. Bao nhiêu người xa quê cứ nhớ cái món ăn thuở nhỏ trong một phiên chợ sáng đó để rồi day dứt, mong ngóng ngày về…

4. Tương Nam Đàn

Tương Nam Đàn là một loại nước chấm, nước chan được nấu từ hạt đậu tương và gạo nếp hoặc hạt ngô làm mốc, tuy không phải là cao lương mỹ vị nhưng đã trở thành một món ăn truyền thống, một đặc sản của xứ Nghệ. Theo những người dân ở Nam Đàn, nghề làm tương và những món ăn từ tương đã gắn với người dân xứ này từ xa xưa. Dù khoai sắn cầm hơi hay cơm thịt đủ đầy vẫn không thể thiếu được bát tương giữa mâm cơm hằng ngày.

Tương Nam Đàn là cái tên mới nổi lên trong làng ẩm thực Việt. Trước đây, mọi người thường biết nhiều hơn đến tương Bần (Hưng Yên), tương Cự Đà (Hà Tây). So với hai loại tương kia, tương Nam Đàn có nét độc đáo, khác biệt rõ rệt. Tương Nam Đàn thường là “tương mảnh”, hạt đậu làm tương chỉ xay vỡ thành “mảnh đậu” chứ không “nát như tương Bần”. Những mảnh đậu lơ lửng trong nước tương đặc quánh, thơm phức và ngọt lịm. Dù tỷ lệ muối để làm tương không ít, nhưng vị mặn của muối biển đã loãng đi, nhường chỗ cho vị thơm ngây ngất của thứ nước chấm đặc sắc, đậm đà. Chai tương Nam Đàn không có mầu nâu như tương Bần, mà vàng song sánh như mật ong. Không ai có thể cưỡng nổi sức hấp dẫn trước hương vị tương quê hương.

Làm tương Nam Đàn đòi hỏi sự công phu và tỉ mỉ, không phải ai cũng có thể thành công. Một vại tương ngon, đúng hương vị đặc trưng của tương Nam Đàn thường do những người già, sinh ra, lớn lên ở Nam Đàn mới có thể làm được. Tương đạt yêu cầu là tương có ba lớp, trên là đậu nổi lên, giữa là nước và dưới cùng là mốc. Một điều thú vị là người dân Nam Đàn chỉ làm tương vào tháng sáu âm lịch hàng năm. Cũng giống như mắm, tương có thể để rất lâu, dùng ăn cho cả năm mà không sợ hư. Chính vì thế với những người dân quê đạm bạc tương là món ăn mặn, dùng để dành rất tốt.

Công đoạn đầu tiên của quy trình làm tương là làm mốc. Mốc được làm từ hạt ngô hoặc nếp, trước đây thường làm bằng ngô nhưng bây giờ chủ yếu làm bằng nếp. Phải chọn loại nếp chính mùa, hạt chắc mẩy và có mùi thơm. Nếp được vò kỹ và hông thành xôi, sau đó rải đều ra nong. Khi xôi nguội, người làm rưới vào một ít nước chè đặc và đem ủ kín bằng lá nhãn. Sau hơn 10 ngày, nếu mốc có màu hoa cải hoặc màu đen óng như mật mía là đạt yêu cầu. Đây được xem là công đoạn khó nhất trong quy trình làm tương, quyết định cơ bản sự thành bại của sản phẩm.

Công đoạn tiếp theo là chế biến đỗ tương. Phải chọn loại chính mùa, hạt đều tăm tắp đem vò kỹ, phơi khô và rang. Muốn tương thơm ngon phải rang chín đều nên khi rang phải nhỏ lửa, tốt nhất là rang vào nồi đất đỗ sẽ chín rất đều. Khi nguội, đỗ được đem xay vỡ đôi rồi pha nước lã sạch và cho lên bếp, nấu khoảng chừng 10-12 giờ. Nấu xong, nước đỗ được chuyển sang chum và đem phơi nắng chừng 1 tuần, khi nước đỗ tỏa mùi thơm ngào ngạt là lúc có thể ngạ tương.

Công đoạn ngạ tương thường được thực hiện vào đêm khuya, người làm tương đem mốc và muối trộn vào chum nước đỗ đã phơi và dùng thanh tre khuấy đều, sau đó che đậy chum tương cẩn thận. Lưu ý là phải chọn loại muối tốt, đem phơi vài ba nắng để các loại tạp chất bay đi và tan đi rồi mới dùng để ngạ tương. Các loại nguyên liệu làm tương được pha trộn với một tỷ lệ nhất định, tùy thuộc vào bí quyết và kinh nghiệm của từng gia đình. Ngạ tương xong, hàng ngày vào buổi sớm, người làm tương mở chum, dùng thanh tre khuấy đều để nước, đỗ và mốc luôn được hòa tan vào nhau. Cứ thế, khoảng từ 1 tháng rưỡi đến 2 tháng sau, khi mở chum ra, mùi thơm phức dậy lên và lan tỏa, ấy là lúc chum tương đã dùng được.

Tương Nam Đàn dùng để làm nước chấm thịt luộc, dùng để kho cá, chấm rau, chấm đậu, ăn với cơm hàng ngày. Hoặc dùng làm nước chan. Vào mùa hè dùng nước tương chấm với ngọn khoai lang luộc, rau muống luộc, bí luộc ăn với cơm, vừa mát, vừa đậm đà hương vị đồng quê. Thịt bò, thịt bê luộc chấm với nước tương ngọt có ít gừng, tỏi, thì tạo ra hương vị đặc biệt khó quên khi thưởng thức. Người dân Nam Đàn thường giã nhỏ lạc rang hay vừng đen hoà với nước tương sền sệt để chấm chuối xanh hay khế chua thái mỏng ăn với cơm. Vắt xôi nếp mà chấm với nước tương ngọt cũng rất đậm đà.

Du Lịch Sài Gòn: “Du Hí” Ở Chợ Bến Thành Về Đêm

Chợ Bến Thành đã có từ lâu đời từ trước khi người Pháp chiếm được Gia Định. Ban đầu vị trí của chợ nằm ở bờ sông Bến Nghé cạnh thành Gia Định nên được người dân xung quanh và khách vãng lai gọi là chợ Bến Thành. Đến năm 1911, chính quyền thuộc địa Pháp quyết định dời chợ về vị trí hiện tại. Chợ Bến Thành được khởi công xây dựng từ năm 1912 cho đến cuối tháng 3/1914 thì hoàn tất và hoạt động liên tục cho đến ngày nay.

Chợ đêm Bến Thành nằm ngay ở Trung tâm Quận 1, trên 4 con đường Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Lưu Văn Lang và Nguyễn An Ninh đối diện cửa Đông và cửa Tây. Từ 7 giờ tối, các cửa hàng bên trong chợ chính đóng cửa, nhường chỗ cho sự xuất hiện của Chợ đêm Bến Thành, Các gian hàng chợ đêm bắt đầu được bày bán và tham quan vào lúc 20 giờ tối.

2. Chợ Bến Thành Sài Gòn về đêm có gì?

Khách ghé qua chợ đêm Bến Thành thường là những người yêu thích nét văn hóa độc đáo của Sài Gòn cũng như tìm mua cho mình và gia đình những món hàng lưu niệm. Ngoài ra chợ đêm Bến Thành cũng đón một lượng lớn là các bạn trẻ đến đây sau một ngày học tập và làm việc căng thẳng mệt mỏi.

Điểm độc đáo ở chợ đêm là chẳng ở đâu có các cô bán hàng xinh đẹp, ăn mặc rất thời trang và thành thạo ngoại ngữ như các tiểu thương ở chợ đêm Bến Thành. Bước chân vào chợ là len lỏi giữa dòng du khách, tai nghe những lời mời chào bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Thái… xôn xao như bản một hợp âm đầy màu sắc.

Hàng hóa ở đây rất đa dạng, có đủ các loại từ hàng xuất khẩu, hàng gia công đến hàng xách tay cao cấp. Thực phẩm thì đạt chuẩn chất lượng, rau củ trái mùa cũng có, trái cây ngoại nhập, thủy hải sản tươi sống,…

Ngoài ra, chợ Bến Thành về đêm còn có rất nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ như tranh thêu, tranh sơn mài, tranh sơn dầu, gỗ hồng mộc hay mành tre, đồ gốm sứ. Những tác phẩm kể trên thật sự là những kiệt tác nghệ thuật được thiết kế qua bàn tay khéo léo của các nghệ nhân Việt Nam.

3. Chợ đêm Bến Thành có món ẩm thực gì?

Nếu là tín đồ của các món gỏi cuốn thì chợ đêm Bến Thành sẽ là địa chỉ thích hợp cho thực khách. Những món gỏi cuốn ở đây khá hấp dẫn với nước chấm là mắm nêm, tương đen hoặc nước mắm, tạo ra hương vị khó quên cho du khách lần đầu thưởng thức.

Có thể nói, Chợ Bến Thành về đêm như một Sài Gòn thu nhỏ có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu về ăn uống và mua sắm của du khách. Chợ đêm Bến Thành đã trở thành một nét văn hóa, một địa điểm tham quan không thể bỏ qua của du khách khi muốn tìm hiểu về Thành phố Hồ Chí Minh.